QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
I. KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Khái niệm chuyển đổi số và chuyển đổi số quốc gia
a) Khái niệm chuyển đổi số
Sự phát triển vượt bậc của công nghệ số vào phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay đѭa nhân loại bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số.
Có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về chuyển đổi số (digital transformation). Theo Gartner, chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới. Microsoft cho rằng, chuyển đổi số là việc tѭ duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi ngѭời, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới291. Còn theo quan điểm của FPT, chuyển đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới, như: dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)... làm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa tổ chức 292.
Các công nghệ số giúp ohuyển hóa thông tin từ thế giới thực thành thế giới ảo vật lý với dung lѭợng thông tin rất lớn, tốc độ cao và đa dạng tới mọi mặt của đời sống xã hội.
Theo Cẩm nang chuyển đổi số của Bộ Thông tin và Truyền thông, Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi tổng thể và toàn diện cách sống, cách làm việc và phѭơng thức sản xuất của cá nhân, tổ chức. Đối với mỗi cá nhân, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Còn đối với nhà nѭớc, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm ngѭời dùng với các dịch vụ do nhà nѭớc cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phѭơng thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước 293.
Chuyển đổi số có thể bị nhầm lẫn với khái niệm số hóa. Số hóa (Digitization) là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thѭờng sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn nhѭ chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng tѭơng tự (analog) sang phát sóng kỹ thuật số...). Trong khi đó, chuyển đổi số là khai thác các dữ liệu có đѭợc từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem số hóa nhѭ một phần của quá trình chuyển đổi số.
Quá trình chuyển đổi số gồm các giai đoạn:
- Số hóa: Chuyển thông tin thực sang dạng số để dễ dàng lѭu trữ, tìm kiếm, chia sẻ. Ứng dụng kỹ thuật số vào các quy trình nghiệp vụ. Sử dụng phần mềm để làm cho các hoạt động trở lên đơn giản và hiệu quả hơn.
- Ứng dụng công nghệ số: Quá trình ứng dụng công nghệ số, dữ liệu số để đơn giản hóa, tối ѭu hóa, tăng hiệu quả của các hoạt động nhѭng chѭa thay đổi thực sự mô hình hoạt động.
- Chuyển đổi số: là cấp độ các cá nhân, các tổ chức sử dụng các công nghệ nhѭ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật để thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu một cách toàn diện và triệt để, từ đó dẫn đến sự thay đổi mô hình và cách thức hoạt động của tổ chức. Đây là một quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện, từ lãnh đạo cao nhất đến mọi thành viên của tổ chức, từ xây dựng năng lực số đến văn hóa số, xây dựng lộ trình và kế hoạch, từng bước thay đổi theo lộ trình.
Ví dụ, với chính phủ điện tử, ở cấp độ 1, văn bản ở dạng file doc/pdf, số hóa các số liệu thống kê, văn bản, tài liệu, sử dụng chữ ký số. Ở cấp độ 2 có trục liên thông văn bản, eCabinet, điều hành điện tử. Ở cấp độ 3, ví dụ, xử lý kiến nghị của người dân, doanh nghiệp giảm các cơ quan, tổ chức trung gian dựa trên AI, Robots. Các dịch vụ do Chính phủ cung cấp để giải quyết vấn đề an sinh của người dân được tùy biến theo nhu cầu.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số có các mức khác nhau, hiện tại ở Việt Nam chủ yếu là mức số hóa và ứng dụng công nghệ số (tin học hóa). Việc thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi số tương tự thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo với các công nghệ số. Công nghệ cho chuyển đổi số ở các mức độ khác nhau là khác nhau, ở mức chuyển đổi số toàn diện là các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (AI, IoT, Blockchain, điện toán đám mây, 5G, AR, in 3D, phân tích dữ liệu lớn; thực tại ảo tăng cường (AR), thực tại ảo hỗn hợp MR ).
b) Khái niệm chuyển đổi số quốc gia
Trong quá trình phát triển của kỷ nguyên số, chuyển đổi số là điều tất yếu mà các quốc gia trên thế giới đang hѭớng tới. Chuyển đổi số có tác động sâu rộng đến từng cá nhân, công dân, tổ chức, doanh nghiệp, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Chuyển đổi số trong tổ chức là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo mới hoặc sửa đổi các quy trình hoạt động và phương thức làm việc của tổ chức. Chuyển đổi số trong doanh nghiệp là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo mới hoặc sửa đổi các quy trình kinh doanh, văn hóa và trải nghiệm khách hàng hiện có nhằm đáp ứng các yêu cầu thay đổi của thị trường và kinh doanh.
Chuyển đổi số quốc gia là quá trình chuyển đổi số ở cấp độ quốc gia để xây dựng một quốc gia số. Mục tiêu chuyển đổi quốc gia không chỉ là sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo ra tác động lên tăng trưởng, năng suất, mạng lưới sản xuất toàn cầu, thành phần nhu cầu, thương mại và việc làm trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Mục tiêu của chuyển đổi số số cần bao gồm cả việc chuẩn bị môi trường cho chuyển đổi số, mục tiêu quản trị, mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu thể chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, hiện nhiều nước đã xây dựng và triển khai các chiến lược, chương trình quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển đổi số quốc gia của các nước có khác nhau, phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Nhìn chung, các quốc gia đều hướng tới các nội dung chính sau:
Một là, chuyển đổi số nền kinh tế (kinh tế số), bao gồm: phát triển các doanh nghiệp số; chuyển đổi số cho các doanh nghiệp truyền thống (hѭớng tới sản phẩm tích hợp số; chuyển đổi mô hình kinh doanh trên nền tảng số; thay đổi quy trình sản xuất dựa trên dữ liệu số, tự động hóa, ảo hóa, ); phát triển tài chính số; phát triển thương mại điện tử; chuyển đổi số trong một số ngành trọng điểm để phát triển kinh tế - xã hội như: giáo dục, y tế, nông nghiệp, du lịch, giao thông
Hai là, chuyển đổi số xã hội (xã hội số), trong đó tập trung vào các lĩnh vực như: ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khoảng cách xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn an ninh xã hội Xã hội số bao gồm công dân số và văn hóa số. Trong đó, công dân số là thế hệ công dân có khả năng truy cập các nguồn thông tin số, giao tiếp trong môi trường số, định danh và xác thực, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số; văn hóa số là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức của con người trong môi trѭờng số.
Ba là, chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước (chính phủ số). Chính phủ số là chính phủ sử dụng dữ liệu số để ra quyết định và coi dữ liệu như một loại tài nguyên, là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên dữ liệu được lượng hóa, phân tích và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ số cũng là chính phủ kết nối, chia sẻ dữ liệu với người dân, cộng đồng doanh nghiệp nhằm cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho doanh nghiệp, người dân, tăng cường sự tham gia người dân trong các hoạt động cơ quan nhà nước; tăng cường hiệu quả hoạt động và đổi mới trong các cơ quan nhà nước; phát triển dữ liệu mở của cơ quan nhà nước, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Việc tiến hành chuyển đổi số đòi hӓi, cùng với việc cung cấp các dịch vụ trực tuyến và cổng thông tin chính phủ điện tử hỗ trợ người dân thì cần phải có một quá trình chuyển đổi số của chính phủ. Đó là quá trình hiện đại hóa và phát triển các hệ thống trực tuyến dựa trên công nghệ thân thiện với người dùng, lấy người dùng làm trung tâm, định hướng chiến lược và cung cấp những trải nghiệm tốt hơn để đáp ứng nhu cầu của công dân tương tác với chính phủ đồng thời cải thiện cách thức hoạt động của hệ thống chính quyền. Quy trình hiện đại hóa này được gọi là chuyển đổi số chính phủ.
Chuyển đổi số quốc gia được thực hiện ở cấp trung ương và cấp địa phương. Ở cấp địa phương, chuyển đổi số là chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa phương đó. Địa phương chuyển đổi số thành công số đóng góp vào thành công chung của chuyển đổi số quốc gia.
2. Vai trò của chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số quốc gia mang lại những lợi ích, giá trị to lớn đối với cả quốc gia, doanh nghiệp và ngѭời dân.
- Đối với quốc gia, chuyển đổi số tạo bứt phá và thành công cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong việc nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và rút ngắn khoảng cách phát triển. Chính vì vậy, nếu quốc gia nào tận dụng tốt cơ hội mà chuyển đổi số mang lại thì số thành công.
Chuyển đổi số giúp tiết kiệm chi phí, minh bạch thông tin và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Chuyển đổi số đóng góp nhiều nguồn lực và giá trị mới cho phát triển kinh tế của các quốc gia. Chuyển đổi số còn đem lại những giải pháp thông minh, hiệu quả trong giải quyết các vấn đề xã hội và môi trѭờng, chẳng hạn như: xây dựng đô thị thông minh giúp hạn chế khí thải nhà kính, ô nhiễm môi trѭờng, tiết kiệm năng lượng, hạn chế được tình trạng tội phạm, ùn tắc, tai nạn giao thông...
- Đối với Chính phủ, chuyển đối số sử dụng dữ liệu và hệ thống công nghệ số nhằm thay đổi trải nghiệm ngѭời sử dụng với các dịch vụ công do Nhà nước cung cấp. Chuyển đổi số quốc gia còn giúp các cơ quan của nhà nѭớc bӓ qua những thủ tục cồng kềnh, mất thời gian trong khi xử lý công việc đem lại hiệu quả cao hơn. Người đứng đầu mỗi cơ quan dễ dàng kiểm soát, quản lý công việc thuận tiện hơn, dễ đánh giá hiệu quả của mỗi cán bộ trong công việc. Giảm nhân lực trong việc xử lý công việc, tinh gọn bộ máy, đơn giản thủ tục hành chính, tiết kiệm ngân sách trả lương cho cán bộ của nhà nước. Việc thay đổi hệ thống công nghệ cũng làm thay đổi nghiệp vụ, mô hình và phương thức hoạt động của bộ máy cơ quan nhà nước, từ điều hành quản lý cho đến hoạch định chiến lược.
Việc mỗi quốc gia chuyển đổi số số đem lại sự hoàn chỉnh tổng thể về thể chế pháp lý, đảm bảo cơ sở hạ tầng số. Từ đó người dân thuận lợi hơn trong việc nắm bắt thông tin và thuận lợi hơn trong các hoạt động xã hội.
Chuyển đổi số cũng đang dần thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những ngѭời đứng đầu các quốc gia, tổ chức, có khả năng quyết định hѭớng đi và sự thành công của quốc gia và tổ chức. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đã đầu tư rất nhiều vào hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho quá trình chuyển đổi số trước những lợi ích mà nó đem lại. Chính phủ các nước dần ứng dụng chuyển đổi số vào công tác xây dựng Nhà nước số, Chính phủ điện tử. Đồng thời cũng đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng những thành tựu của chuyển đổi số vào quá trình vận hành kinh doanh doanh nghiệp. Đối với hoạt động nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, các bộ máy chính quyền của nhiều quốc gia đã ngay lập tức áp dụng chuyển đổi số khi nhận thức được tầm quan trọng của nó.
- Đối với doanh nghiệp, đầu tiên là sự cắt giảm chi phí vận hành và tiếp cận nhiều khách hàng hơn, dễ dàng trong việc quản lý: ra quyết định nhanh chóng, nắm bắt tiến độ chính xác, tối ưu hóa công việc của nhân viên, mang lại hiệu quả trong hoạt động và nâng cao sự cạnh tranh. Đặc biệt, chuyển đổi số mang lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ, các công ty khởi nghiệp (startup). Nếu trước đây, các công nghệ kiểu cũ thì chỉ có các công ty lớn, có rất nhiều tiềm lực kinh tế mới có thể tiếp cận được thì bây giờ, công ty nhỏ hay startup mới đều có thể tiếp cận được công nghệ không thua kpm gì các những công ty lớn.
- Đối với người dân, việc chuyển đổi số số mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho người dân như: Khi thực hiện Chính phủ số, mỗi người dân sẽ được cấp một mã số định danh và được trải nghiệm các dịch vụ số hiện đại và được chăm sóc tốt hơn. Khi thực hiện kinh tế số, mỗi người dân, mỗi gia đình đều có thể trở thành một doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng theo cách chưa từng có. Khi thực hiện xã hội số số giúp xóa nhòa khoảng cách địa lý, tạo cơ hội bình đẳng, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân để Không ai bị bỏ lại phía sau. Chẳng hạn, học sinh ở miền núi có thể được học trực tuyến với những thầy giáo giỏi nhất ở Hà Nội. Một người lao động Việt Nam ở nước ngoài có thể nhận được những ý kiến tư vấn, chăm sóc y tế từ xa bởi những bác sĩ giỏi nhất ở các bệnh viện hàng đầu Việt Nam, với giá thành dịch vụ rẻ hơn gấp nhiều lần so với ở nước ngoài...
Đối với người tiêu dùng, chuyển đổi số cũng đang dần tác động vào trong cuộc sống khi có thể trải nghiệm các dịch vụ công hay các dịch vụ được cung cấp từ các doanh nghiệp ngày càng thuận tiện, nhanh chóng. Các giao dịch như: ngân hàng, mua sắm hoàn toàn có thể thực hiện qua mạng mà không cần phải đến tận nơi thực hiện.
Theo báo cáo của các tổ chức uy tín trên thế giới, quyết tâm chuyển đổi số mạnh mễ sự giúp các nước đang phát triển, trong đó có thể giúp Việt Nam tăng năng suất lao động lên từ 30 đến 40%, góp 20 đến 30% trong tăng trѭởng GDP, tránh được bẫy thu nhập trung bình294.
3. Các mô hình chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số là quá trình diễn ra toàn cầu của thế kỷ 21, nước nào đi trước và tận dụng cơ hội chuyển đổi số toàn diện nhất sẽ có đựợc ưu thế cạnh tranh vượt trội. Mặc dù định hướng mục tiêu chiến lược chuyển đổi số ở các quốc gia tương đồng nhau, nhưng các nhiệm vụ, giải pháp có thể khác nhau do mỗi quốc gia có hệ thống, phương pháp quản lý, vận hành khác nhau, có những thuận lợi và khó khăn khác nhau.
Ví dụ. Vương quốc Anh định hѭớng chiến lѭợc tập trung phát triển dịch vụ công số, ở Đức là ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, Trung Quốc tập trung xây dựng chính phủ số, hay Mỹ tập trung vào xây dựng doanh nghiệp số295.
Ở Anh, phát triển kinh tế số gắn chặt với chuyển đổi số các dịch vụ. Từ năm 2010 đã ban hành Luật Kinh tế số (Digital Economy Act). Các hệ thống đổi mới, cải tiến được hiện đại hóa, cho phép tạo dựng các quan hệ giữa tất cả những tổ chức tham qua vào quá trình chuyển đối số với nhà nước. Cục Đổi mới sáng tạo nhà nѭớc (Innovate UK) đѭợc thành lập để hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học lĩnh vực kỹ thuật robot và trí tuệ nhân tạo, tổ chức các cuộc thi và huy động các quỹ tài chính của doanh nghiệp và nhà nѭớc. Thị trѭờng các dịch vụ số ở Anh phát triển chủ yếu trong lĩnh vực tài chính và kinh doanh điện tử, giáo dục (RefMe, eSchools) và sức khӓe (Network Locum), xây dựng, giao thông vận tải đường sắt.
Mô hình của Singapore, Đan Mạch cũng chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ công số, triển khai hệ thống dữ liệu dùng chung đến nay hầu như 100% dịch vụ công được cung cấp cho người dân là trực tuyến, và để làm điều đó đã hoàn thành cấp mã số định danh công dân, an toàn thông tin được đảm bảo ở 2 cấp độ kiểm tra. Đội tình nguyên viên luôn túc trực ở các khu dân cư để hỗ trợ, hướng dẫn kịp thời. Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ cung cấp các dịch vụ interrnet miễn phí cho nhóm yếu thế, người già296.
Chính phủ Na uy đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh đổi mới công nghệ tới 50% cơ cấu đầu tѭ. Trong cơ cấu ngân sách cho các hoạt động chuyển đổi công nghệ chiếm 55% đầu tư nhà nѭớc, trong đó có cả chính sách cho những doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số như ưu đãi thuế và hỗ trợ trực tiếp, một phần thông qua các quỹ. Ngân sách đầu tѭ tăng lên hàng năm, tập trung vào phát triển hạn tầng công nghệ, tài trợ cho các nghiên cứu và thu hút những nghiên cứu tốt nhất, quốc tế hóa các dự án.
Mô hình Nhật Bản dựa trên chính sách quốc gia Xã hội 5.0 năm 2016. Trong đó tập trung vào giải quyết các vấn đề xã hội số và kinh tế số. Chính phủ Nhât Bản triển khai chương trình kết nối các lĩnh vực (Connected Industries), bao gồm những hѭớng đổi mới như tự động hóa, phát triển kỹ thuật robot, và hạ tầng sản xuất, công nghệ sinh học, hóa học và thành phố thông minh. Chiến lược Xã hội 5.0 đảm bảo có lợi cho tất cả các bên: kinh doanh, khởi nghiệp công nghệ và Nhà nước, làm cho mô hình kinh tế số và xã hội số Nhật Bản trở thành ưu thế vượt trội.
Ở Đức, một mặt thuộc nhóm có tốt độ chuyển đổi số chậm hơn, nhưng mặt khác, chính sách hỗ trợ thúc đầy các công nghệ số lại đi đầu trong các nước. Mô hình Đức định hướng trọng tâm xây dựng nền sản xuất thông minh (smart manufacturing) nhờ cáс hệ thống tự động hóa (CPS). Vào năm 2015, liên bang đã thành lập nền tảng mạng Công nghiệp 4.0 trong kinh doanh, bao gồm quy định khung kiến trúc, quy đinh, tiêu chuẩn, các bộ phận đảm bảo an toàn thông tin, xây dựng cơ sở pháp lý, về đào tạo và nâng cao năng lực, về cấu trúc lại mối quan hệ giѭa bộ máy quyền lực nhà nước với sản xuất kinh doanh, tổ chức khoa học và với xã hội. Mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ ứng dụng công nghệ số trong các dây chuyền sản xuất lên đến 83%.
Châu Á là điểm nóng của việc tiếp cận kỹ thuật số và những quốc gia đang phát triển có tiềm năng to lớn nhờ vào tốc độ đột phá trong tiếp cận kỹ thuật số. Tại Trung Quốc, mô hình trên cơ sở ứng dụng tích cực các thành tựu thế giới trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mở rộng cho các công ty nước ngoài gia nhập thị trường rộng lớn của Trung Quốc với điều kiện bắt buộc, đó là đầu tư nước ngoài, vận hành và sở hữu Trung Quốc. Vào năm 2015 chương trình Interrnet + được thông qua với mục tiêu chính là đến năm 2049 hoàn thành phát triển xã hội số. Chương trình đặt mục tiêu nâng tỷ lệ kinh tế số trong cơ cấu GDP là từ 6-7% vào năm 2014 lên 35% đến năm 2020 và đến năm 2030 là 50%.
Hiện nay mô hình Trung Quốc cho phpp trong thời gian ngắn đạt được thành tựu lớn, đặc biệt những thành tựu lớn trong chế tạo các thiết bị điện tử cho ngành hàng không và y học. Vấn đề an ninh mạng đѭợc chú trọng và đang cố gắng tự chủ hoàn toàn.
Hiện nay trong các nghiên cứu, việc xác định các quốc gia theo các mô hình chuyển đổi số nào chủ yếu dựa trên kết quả chuyển đổi số đѭợc xếp theo thứ hạng theo các bộ chỉ số quốc tế. Các Bộ chỉ số quốc tế phổ biến đó là Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử và Chỉ số Phát triển số.
Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (E-Government Development IndexEGDI) được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá hai năm một lần cho tất cả 193 nước thành viên. Đây là bộ chỉ số tổng hợp trung bình về ba lĩnh vực quan trọng nhất của Chính phủ điện tử: dịch vụ công trực tuyến, hạ tầng viễn thông, nguồn nhân lực. EGDI được sử dụng để đo lường sự sẵn sàng và khả năng của một quốc gia trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và Truyền thông để cung cấp các dịch vụ công. Chỉ số này giúp cho các quốc gia, các tổ chức nghiên cứu, nhà hoạch định có sự hiểu biết sâu sắc hơn về điểm chuẩn so sánh của các vị trí tương đối của một quốc gia trong việc sử dụng Chính phủ điện tử cho các hoạt động, trách nhiệm công dân và khả năng cung cấp dịch vụ công. Mỗi bộ chỉ số tự nó là một thước đo tổng hợp có thể được tách ra và phân tích một cách độc lập. Năm 2020, Liên hợp quốc khởi động Chính phủ số trong thập kỷ hành động vì sự phát triển bền vững (Digital Government in the Decade of Action for Sustainable Development), theo đó các chỉ số đѭợc điều chỉnh để phù hợp hơn trong đánh giá mức độ phát triển của Chính phủ số.
Chỉ số Phát triển số (Digital Evolution Index - DEI) đã được đưa ra bởi Harvard Business Review trên cơ sở hợp tác với Trường Fletcher thuộc Đại học Tufts với sự hỗ trợ của Mastercard và DataCash nhằm đánh giá mức độ sẵn sàng cho nền kinh tế số và xã hội số của các quốc gia. Chỉ số DEI bao gồm 4 yếu tố chính: các yếu tố liên quan đến bên cung (bao gồm truy cập, thực hiện, và hạ tầng các giao dịch); các yếu tố liên quan đến bên cầu (bao gồm hành vi và xu hѭớng của ngѭời tiêu dùng, kiến thức thực tế về tài chính, Internet, và truyền thông xã hội); sự đổi mới (bao gồm hệ thống kinh doanh, công nghệ và huy động vốn, sự hiện diện và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mang tính chất rào cản cũng như của các ý tưởng và văn hóa khởi nghiệp); và thể chế (bao gồm tính hiệu quả của các chính sách của Chính phủ và vai trò của Chính phủ trong điều tiết doanh nghiệp, ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cũng như thúc đẩy môi trường kỹ thuật số).
Từ kết quả của các bộ chỉ số trên, các quốc gia được xếp hạng và chia nhóm theo 4 mô hình phát triển chính sau:
- Mô hình phát triển đi đầu (Stand Out): các quốc gia có trình độ phát triển công nghệ rất cao và có động lực phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, duy trì được động lực như vậy là một thử thách và các quốc gia này cần giữ được guồng quay sáng tạo và khai thác thêm nhiều nhu cầu mới. Thuộc nhóm này có các quốc gia như Đan Mạch, Estonia, Anh, Mỹ Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông, Israel, các nѭớc Bắc Âu.
- Mô hình phát triển chững lại (Stall Out): các quốc gia phát triển công nghệ cao thành công và đang tận hưởng thành quả từ công cuộc đó nhưng không thể hiện động lực phát triển hơn nữa. Điều các quốc gia này cần làm là loại bỏ những yếu tố cản trở sự sáng tạo và tự đổi mới chính mình. Thuộc nhóm này là Úc, các nước Tây Âu như Đức, Hà Lan, Iceland
- Mô hình phát triển bứt phá (Break out): các quốc gia chỉ đạt điểm thấp về thành quả công nghệ số hóa nhưng có mức độ tăng trưởng rất ấn tượng với động lực lớn, có thị trường tiềm năng và sức hấp dẫn mạnh mẽ với các nhà đầu tư. Để tận dụng hết những lợi thế này, họ cần xây dựng nhiều cơ chế tốt hơn để khuyến khích và nuôi dѭỡng sự sáng tạo. Thuộc nhóm này là Trung Quốc, Kenia, Nga, Ấn Độ, Malaisia, Philippin, Braxil, Chi lê
- Mô hình phát triển cầm chừng (Watch Out): các quốc gia có kết quả số hóa và động lực phát triển đều thấp với những lỗ hổng về cơ sở hạ tầng, kìm hãm trong cơ chế pháp luật và nhu cầu thị trường công nghệ thấp. Điều quan trọng nhất các quốc gia này cần làm để cải thiện vị thế là giải quyết những lỗ hổng và tăng cường tiếp cận với các thành quả công nghệ đã có trên thế giới. Thuộc nhóm này là Peru, Ai Cập, Hy Lạp, Pakistan
Cũng cần lѭu ý là thứ hạng các nѭớc cũng thay đổi hàng năm và có những nѭớc có thể nằm ở ranh giới giữa các mô hình trên.
Việt Nam nằm trong nhóm bứt phá, là quốc gia hiện có điểm số về mức độ trung bình, nhưng đang phát triển nhanh chóng và được đánh giá là có cơ hội lớn để trở nên nổi bật trong tương lai. Từ những mô hình chuyển đổi số quốc gia, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Chuyển đổi số cần được tiến hành hệ thống trên các trục chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, tính đến khía cạnh đảm bảo pháp lý, lợi ích của các bên: doanh nghiệp - nhà nước - xã hội, tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu hạn chế, rủi ro. Nhà nѭớc cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, đặc biệt là các công cụ ưu đãi thuế, chính sách tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhӓ, cho các doanh nghiệp tư nhân; nâng cao chi phát triển công nghệ, liên kết giữa khoa học và sản xuất trong khuôn khổ hợp tác công tư; thúc đẩy chuyển đổi số trong công nghiệp, tài chính, thương mại, ứng dụng sản xuất thông minh; y tế, giáo dục; đảm bảo hệ thống hạ tầng ổn định và an toàn; các điều kiện thu hút các nguồn lực trí thức; giảm tình trạng mất cân bằng số giữa các khu vực; đảm bảo mức độ đào tạo năng lực số cần thiết cho công chức và người dân.
4. Chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam
Chuyển đổi số quốc gia là quá trình phát triển tất yếu trên toàn cầu và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài lộ trình ấy. Chuyển đổi số được Đảng ta xác định là cơ hội bứt phá để nước ta nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển, là phương thức đột phá để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, coi đó là một trong những trụ cột quan trọng, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Tận dụng lợi thế của một quốc gia đi sau trên con đường phát triển, Việt Nam cần phải tận dụng những lợi thế của chuyển đổi số để hiện đại hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, tăng khả năng cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nắm bắt xu thế này, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đã nhận thức rõ về ưu thế
Thêm nữa, 5 quốc gia xếp trên Việt Nam là Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Philippines và quốc gia ngay sau Việt Nam đều đã tuyên bố chiến lược phát triển chính phủ số. Điều này cũng cho thấy, khó có sự dừng lại của các nước khác trong tiến trình này. của Cách mạng công nghiệp lần thứ tѭ và đổi mới mô hình tăng trưởng trên cơ sở, nền tảng chuyển đổi số khi khẳng định: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế , phát triển mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao để đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP và đến năm 2030 là 30% GDP.
Trong Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những khái niệm như: Chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số đã lần đầu tiên được đề cập. Nội hàm của những khái niệm này cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm phát triển và các đột phá chiến lược. Văn kiện đã chỉ rõ: Phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành xây dựng chính phủ số, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP và đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về Chính phủ số và kinh tế số. Từ đó, Đảng ta cũng đã chỉ ra định hướng mang tính chiến lѭợc: Chú trọng phát triển hạ tầng viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số và xã hội số.
Hiện thực hóa những chủ trѭơng trên, Thủ tѭớng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020. Chương trình chuyển đổi số của Việt Nam còn được gọi là Chương trình thông minh hóa quốc gia với ba trụ cột chính: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Theo đó, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kpp là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với các chỉ số cụ thể.
Chương trình đề ra mục tiêu đến năm 2025 phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động với 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước). 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ. 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính, bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bѭớc mở dữ liệu của các cơ quan nhà nѭớc để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ ngѭời dân và phát triển kinh tế - xã hội; 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nѭớc đѭợc thực hiện qua môi trѭờng số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý. Phấn đấu Việt Nam sӁ gia nhập nhóm 70 nѭớc dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
Về phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI), thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI), thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
Về phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, mục tiêu đến năm 2025 là hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; phấn đấu Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Theo Chѭơng trình, đến năm 2030, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đѭợc cung cấp 100% trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã sẽ được xử lý trên môi trѭờng mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nѭớc); hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ ngѭời dân, doanh nghiệp; 70% họat động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.
Ngoài ra, Việt Nam đặt mục tiêu gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Về phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử là trên 80%. Việt Nam sẽ thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Quyết định nêu rõ nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số là chuyển đổi nhận thức; kiến tạo thể chế; phát triển hạ tầng số; phát triển nền tảng số; tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số.
Nhiệm vụ, giải pháp phát triển Chính phủ số là:
- Phát triển hạ tầng Chính phủ số phục vụ cơ quan nhà nѭớc trên cơ sở kết hợp thế mạnh của Mạng Truyền số liệu chuyên dùng, mạng Internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan nhà nước để phục vụ kết nối liên thông, xuyên suốt 4 cấp hành chính, sử dụng cơ chế mã hóa và công nghệ bảo đảm an toàn, an ninh mạng do Việt Nam làm chủ một cách an toàn, bảo mật. Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các Bộ, ngành, địa phương, chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ điện toán đám may phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của cơ quan nhà nѭớc một cách an toàn, linh hoạt, ổn định và hiệu quả.
- Đẩy mạnh triển khai các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển Chính phủ điện tử; xây dựng Cổng dữ liệu quốc gia (data.gov.vn), tích hợp với thàh phần dữ liệu mở của hệ tri thức Việt số hóa, cung cấp dữ liệu mở,cung cấp hiện trạng và lộ trình xây dựng dữ liệu trong các cơ quan nhà nước, mức độ chia sẻ và sử dụng dữ liệu và các thông tin cần thiết để kết nối; phát triển, hoàn thiện Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ kết nối với hệ thống thông tin báo cáo của các Bộ, cơ quan, địa phương; áp dụng công nghệ mới nhất về truyền thông xã hội (Social), cung cấp thông tin, dịch vụ hành chính công một các đơn giản, thuận tiện trên di động (Mobile), phân tích dữ liệu (Big Data Analytics), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR) để thực hiện chuyển đổi số toàn diện các mặt công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước và cung cấp trải nghiệm tốt nhất, thân thiện nhất cho người dùng;
- Phát triển, hoàn thiện hệ thống Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử của các Bộ, ngành, địa phương để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; đưa toàn bộ các dịch vụ công trực tuyến lên mức độ 3, 4; Đồng thời, chuẩn hóa, điện tử hóa quy trình nghiệp vụ xử lý hồ sơ trên môi trѭờng mạng, biểu mẫu, chế độ báo cáo; tăng cường gửi, nhận văn bản, báo cáo điện tử tích hợp chữ ký số giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các doanh nghiệp; thực hiện số hóa hồ sơ, lưu trữ hồ sơ công việc điện tử của các cơ quan nhà nước theo quy định; thử nghiệm triển khai hiệu quả một số dịch vụ trên nền tảng đô thị thông minh, thửu nghiệm Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh;
- Lựa chọn đô thị điển hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng để triển khai thử nghiệm, gắn liền phát triển dịch vụ đô thị thông minh với hệ thống chính quyền điện tử, phát triển bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Xác định mô hình triển khai thành công để phổ biến, nhân rộng; xây dựng chương trình nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước
Chѭơng trình Chuyển đổi số quốc gia đã đѭợc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tầm nhìn 10 năm sẽ thay đổi toàn diện đất nước, đặt ra các mục tiêu: Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng góp 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; mọi người dân có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thông minh, không ai bị bỏ lại phía sau. Để đạt được mục tiêu đó, cần có quyết tâm và đột phá với cách làm mới, phù hợp với bối cảnh và thực tiễn.
Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hѭớng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ) cùng với Chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số là nền tảng pháp lý quan trọng trong việc triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia. Những nhiệm vụ đề ra cho thấy Chính phủ đã xác định được những lĩnh vực cần ưu tiên và đã thấy được những thách thức chung về nhận thức, thể chế, chính sách, về hạ tầng và nền tảng số, về nguồn nhân lực và kỹ năng số, để đề ra những biện pháp, giải pháp thực hiện cụ thể.
II. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Khái niệm và trách nhiệm trong quản lý chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số là nhiệm vụ cần sự vào cuộc quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ cấp Trung ѭơng đến địa phương. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương phải coi chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, điều hành. Trong đó, vai trò của ngѭời đứng đầu chính quyền địa phѭơng, đơn vị, các ngành trong quản lý chuyển đổi số quốc gia là cực kỳ quan trọng.
Quản lý chuyển đổi số quốc gia là hoạt động có định hѭớng, có tổ chức và có kế hoạch nhằm chỉ đạo, triển khai thực hiện chiến lược và chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Về trách nhiệm trong quản lý chuyển đổi số quốc gia, tổ chức, bộ máy quản lý nhà nѭớc phát triển chính phủ số cần được kiện toàn, đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ số được mở rộng chức năng, nhiệm vụ để chỉ đạo thêm nội dung về chuyển đổi số, kinh tế số và đô thị thông minh; Ban Chỉ đạo Chính phủ điện tử, Ban Chỉ đạo xây dựng Chính phủ/Chính quyền điện tử, chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phѭơng đѭợc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ tѭơng ứng.
Bộ trѭởng, Thủ trѭởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ѭơng trực tiếp chỉ đạo, chịu trách nhiệm trѭớc Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ về kết quả phát triển chính phủ số, chính quyền số tại bộ, ngành, địa phѭơng mình.
Bộ Thông tin và Truyền thông, đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng có trách nhiệm trong việc tổ chức, điều phối công tác phát triển chính phủ số các cấp.
Các cơ quan, đơn vị, công chức các bộ, ngành, địa phѭơng trong phạm vi trách nhiệm thẩm quyền, phối hợp với các đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin tham mѭu, tổ chức triển khai mạnh mӁ chuyển đổi số tại các bộ, ngành, lĩnh vực, địa phѭơng.
Ngѭời đứng đầu chính quyền các cấp, các ngành chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn phụ trách; tiên phong, đi đầu trong việc chuyển đổi số để nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của địa phѭơng, đơn vị; lấy việc triển khai thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số là một trong những tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của ngѭời đứng đầu các cơ quan, chính quyền các cấp.
Với chính phủ điện tử, chính phủ số cần phải tăng cѭờng hợp tác giữa các cơ quan nhà nѭớc, đặc biệt trong việc cải tiến các dịch vụ công và tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia. Các kênh giao tiếp và cơ quan phối hợp chính thống cần đѭợc thiết lập ở mọi cấp chính quyền.
Các phѭơng tiện truyền thông cần đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích công dân và doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố hỗ trợ Chính phủ đѭa ra các sáng kiến về chính phủ điện tử, đặc biệt là các sáng kiến trong cung cấp dịch vụ công, cũng nhѭ đѭa ra các phản hồi để chính phủ cải thiện hoạt động.
2. Thách thức đối với quản lý chuyển đổi số quốc gia
Để chuyển đổi số ở Việt Nam thành công, chúng ta không chỉ nhìn thấy thời cơ, lợi thế, không chỉ đề ra các chủ trѭơng, chính sách, đề án, chѭơng
trình, chuyển đổi số, mặc dù đó là yếu tố quan trọng, mà vấn đề quan trọng hơn là cần phải đánh giá đúng các thách thức và tìm ra cách thức, giải pháp hữu hiệu để vѭợt qua những thách thức đó.
Việt Nam cần nhận thức rõ các thách thức và những vấn đề đặt ra để cải thiện tình hình. Những thách thức cơ bản đó là:
- Thứ nhất là về nhận thức, tѭ duy và tầm nhìn. Nhận thức về chuyển đổi số nhѭ là tiến trình mang tính tất yếu, về chiến lѭợc tiếp cận ở cả cấp độ quản lý nhà nѭớc đến cấp độ doanh nghiệp và của ngѭời dân còn chѭa cao.
Xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số đòi hӓi tất cả lãnh đạo, công chức trong các cơ quan nhà nѭớc phải nhận thức đúng và hiểu đѭợc tầm quan trọng của chính phủ điện tử và chính phủ số. Cần nâng cao khả năng lãnh đạo chuyển đổi số đến từng cá nhân.
Không chỉ từng cá nhân mà cho tới các tổ chức, cơ quan chѭa hiểu hết ý nghĩa việc chia sẻ thông tin, dữ liệu - cho dù đó chỉ là những dữ liệu có thể dùng chung. Ngѭời dân cho tới nay vẫn còn phải bổ sung thông tin cá nhân, những sự chỉnh sửa, cập nhật theo kiểu thủ công trên mỗi ứng dụng và tại mỗi cơ quan, tổ chức. Nếu nhѭ có đѭợc cơ sở dữ liệu dùng chung mà toàn hệ thống đều cùng sử dụng, chuyển đổi số ắt làm ngѭời dân hài lòng hơn.
Đối với cơ quan nhà nѭớc, Chính phủ số xử lý văn bản không giấy, họp không gặp mặt, xử lý thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt. Sự thay đổi chỉ có thể bắt đầu từ ngѭời đứng đầu. Thách thức lớn nhất cho cơ quan nhà nѭớc là nhận thức và sự vào cuộc thực sự của ngѭời đứng đầu, là chuyện dám làm hay không dám làm.
- Thứ hai là về thể chế pháp lý. Sự thay đổi đòi hӓi phải triển khai các giải pháp công nghệ số, có những việc hoàn toàn mới, chѭa có tiền lệ. Thách thức không nhӓ là môi trѭờng pháp lý để triển khai. Đây là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy hoặc có thể kìm hãm sự phát triển chính phủ số. Chính phủ điện tử là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phѭơng diện kinh tế, kỹ thuật mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hóa xã hội cũng phải được xem xpt. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng chính phủ điện tử thành công.
Thể chế pháp lý về quy trình, thủ tục, nghiệp vụ hành chính cũng cần đѭợc thay đổi. Chính phủ điện tử không đơn thuần chỉ là ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông. Khi triển khai chính phủ điện tử, điều quan trọng là phải đảm bảo thủ tục hành chính và quy trình quản lý đѭợc xem xpt lại và đơn giản hóa. Các cơ quan quản lý cần nghĩ đến các quy trình công việc hơn là các chức năng công việc của mỗi cơ quan và cá nhân, chú trọng hơn tới ngѭời dân và doanh nghiệp cũng nhѭ sự hợp tác giữa các cơ quan.
- Thứ ba là về hạ tầng số. Để xây dựng chính phủ số và chuyển đổi số thành công, cần xây dựng hạ tầng số với cơ sở dữ liệu quốc gia, bao gồm hạ tầng thiết bị, truyền thông, hạ tầng dữ liệu, ứng dụng và hạ tầng nghiên cứu phát triển. Trong đó, quan trọng nhất là kết nối cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phѭơng với một hạ tầng kết nối băng rộng, sử dụng công nghệ tiên tiến và những ứng dụng dùng chung nhằm đảm bảo được sự kết nối liên thông.
- Thứ tư là nguồn nhân lực. Sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực tương lai nói chung và nhân lực trong khu vực công nói riêng. Cán bộ, công chức, viên chức là những nhân vật trung tâm của chính quyền số. Trên thực tế còn một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có những hạn chế trong tѭ duy, trong hành động quản lý cũng như về khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, thói quen sử dụng văn bản giấy tờ, thói quen cát cứ dữ liệu, không chia sẻ thông tin... chưa được khắc phục.
- Thứ năm là an toàn, an ninh mạng. Khi đã có một hệ thống đáp ứng đѭợc yêu cầu của chuyển đổi số, phục vụ cho chính phủ số, việc bảo vệ hệ thống đó tránh các cuộc xâm nhập và phá hoại bên trong và ngoài nѭớc là vô cùng quan trọng bởi hầu hết các máy tính đều có khả năng kết nối toàn cầu. Chỉ khi bảo vệ đѭợc an toàn hệ thống thì mới triển khai đѭợc chính phủ số bền vững. Cũng nhѭ một số quốc gia, Việt Nam hiện gặp phải những thách thức về an toàn thông tin do số ngѭời sử dụng lớn, trình độ đa dạng; thiết bị đầu cuối khác nhau; khó khăn trong kiểm soát bảo mật; phần mềm ứng dụng đa dạng, khả năng duy trì và nâng cấp hạn chế.
- Thứ sáu là nguồn lực tài chính. Nhà nѭớc cần điều chỉnh cơ chế đầu tѭ đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cѭờng xã hội hóa, huy động các nguồn lực phù hợp với các kế hoạch, mức ѭu tiên, bao gồm cả hình thức đối tác công - tư để phát triển chính phủ số.
Để bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, phát triển hạ tầng số, nền tảng số, thực hiện chuyển đổi số, bên cạnh việc có hành lang pháp lý, lộ trình, cơ chế; đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ công nghệ thông tin phù hợp thì phải có đủ nguồn lực tài chính mới có thể phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện nay mức chi đầu tѭ cho chuyển đổi số tại Việt Nam còn thấp, chỉ chiếm từ 0,3-0,5% GDP. Trong khi mức đầu tѭ trung bình trên thế giới phải gấp ít nhất 3 lần nhѭ thế.
- Thách thức cuối cùng là năng lực xã hội tức là năng lực số của ngѭời dân. Sự phát triển nhanh chóng của chính phủ điện tử đòi hӓi trình độ dân trí cần đѭợc cải thiện với mức độ tѭơng ứng. Tỷ lệ doanh nghiệp, ngѭời dân hiểu biết, sử dụng công nghệ thông tin, truyền thông còn thấp. Bên cạnh một bộ phận ngѭời dân chѭa quen với công nghệ, chѭa tiếp cận với dịch vụ công trực tuyến thì vẫn còn không ít doanh nghiệp, ngѭời dân có tâm lý muốn giải quyết công việc bằng cách nhờ vả quan hệ thân hữu hoặc bôi trơn cho nhanh đѭợc việc. Đối với mỗi ngѭời dân, sự thay đổi đòi hӓi thay đổi kỹ năng và thói quen. Thách thức lớn nhất cho xã hội trѭớc mắt là kỹ năng số của ngѭời dân, sau đó là thói quen và văn hóa sống trong môi trѭờng số.
3. Yêu cầu đối với quản lý chuyển đổi số quốc gia
Quản lý chuyển đổi số quốc gia cần dựa trên các yêu cầu:
- Phải lấy ngѭời dân làm trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực cho chuyển đổi số. Mọi chính sách đều hѭớng về ngѭời dân, doanh nghiệp; và ngѭời dân, doanh nghiệp cần tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
- Phải có tѭ duy đột phá, tầm nhìn chiến lѭợc, có cách làm phù hợp, nhất là bám sát thực tiễn để xây dựng chѭơng trình, kế hoạch chuyển đổi số. Làm việc có trọng tâm, trọng điểm, nguồn lực ít nhѭng phải có hiệu quả lớn, sức lan tӓa rộng, mang lại lợi ích cho nhiều ngѭời, nhiều doanh nghiệp.
Chuyển đổi số là một thứ phải đo ni đóng giày cho từng tổ chức, địa phương. Không hề có khuôn mẫu chung cho tất cả, nhưng sẽ tốt cho tất cả nếu như các tổ chức có năng lực và kinh nghiệm đứng ra dẫn dắt công cuộc chuyển đổi số xây dựng đѭợc những cái khung đa dạng rồi có thể hiệu chỉnh cho từng đối tѭợng. Mỗi ngành, lĩnh vực cần phải đѭợc các nhà chuyên môn khảo sát, tѭ vấn tìm ra giải pháp riêng cho mình. Trên tất cả là phải có sự điều hành chung thống nhất từ cấp Chính phủ, vừa bảo đảm sự hợp nhất, đồng bộ, vừa tránh tình trạng nơi làm, nơi không.
- Phải có đầu tѭ thích đáng cho hoàn thiện thể chế, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, quản trị trên cơ sở khoa học, hợp lý, hiệu quả
Để chuyển đổi số thành công, quản lý chuyển đổi số quốc gia cần tập trung thực hiện một số biện pháp cơ bản như:
- Ban hành và thực thi chính sách chuyển đổi số. Tạo hành lang pháp lý, thể chế đồng bộ cho quá trình chuyển đổi số, quản lý pháp luật số nhằm có một môi trường số lành mạnh.
- Xây dựng tài nguyên số, dữ liệu số để vận hành các dịch vụ số.
- Phát triển đồng bộ hạ tầng số, công cụ sản xuất số, công cụ quản lý số làm nền tảng cho các dịch vụ số hoạt động.
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông, chủ thể trực tiếp của tiến trình chuyển đổi số.
- Quản lý được các nguy cơ và rủi ro trên không gian mạng.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Xây dựng chiến lƣợc và thể chế chuyển đổi số
Chiến lược phát triển chính phủ số đѭợc xây dựng dựa trên hiện trạng chính phủ điện tử, xu thế phát triền chính phủ số của thế giới, chiến lược phát triền kinh tế - xã hội. Nội dung chiến lѭợc phát triển chính phủ số phải xác định được tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp phát triền chính phủ số trong dài hạn, thường là các giai đoạn 05 năm; phải thể hiện được sự khác biệt giữa phát triển chính phủ số và chính phủ điện tử. Chiến lược phát triển chính phủ số là kim chỉ nam để xây dựng các kế hoạch hành động phát triền chính phủ số. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chѭơng trình hay chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia, đѭa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại và bứt phá vѭơn lên, thay đổi thứ hạng. Chính phủ Việt Nam cũng đang từng bѭớc áp dụng vào công tác quản lý và xây dựng chính phủ điện tử với các chính sách - pháp luật đang được sửa đổi nhằm có hệ thống pháp lý phù hợp với xu hѭớng hiện nay. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam còn khuyến khích các ngành/nghề, doanh nghiệp áp dụng chuyển đổi số trong tất cả lĩnh vực, như: Chuyển đổi số doanh nghiệp, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục, trong công tác truyền thông Tuy vậy, Chính phủ cũng cần phải hoạch định lại các chiến lược chuyển đổi số quốc gia cho phù hợp và nhất quán nhằm định hѭớng phát triển kinh tế - xã hội số. Trên cơ sở đó, xây dựng các chiến lѭợc chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp đảm bảo quá trình công nghiệp hóa, chuyển đổi hóa và tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó các cơ quan nhà nước - doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu giữ vai trò nòng cốt.
Trong chuyển đổi số, thể chế cần đi trѭớc một bѭớc và đѭợc điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chính vì vậy, chuyển đổi số đѭợc xem không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế.
Trong thời gian tới nhiều vấn đề chѭa đѭợc điều chỉnh để tạo cơ sở pháp lý cho phát triển chính phủ số dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ hiện đại (như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, giao diện lập trình ứng dụng mở...) nhѭ: quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu, về định danh và xác thực điện tử; quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; quy định về văn bản điện tử; lѭu trữ tài liệu điện tử của các cơ quan nhà nước; giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh toán; về dịch vụ công số và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường số, bảo vệ quyền con người, bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2. Xây dựng kế hoạch và lộ trình chuyển đổi số
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chuyển đổi số quốc gia, mỗi cơ quan, tổ chức nhà nѭớc cẩn xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động phát triển chính phủ số, chính quyền số với những hành động triển khai cụ thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
Kế hoạch hành động phát triển chính phủ số là việc cụ thể hoá chiến lѭợc phát triền chính phủ số thành các nhiệm vụ, dự án, trong đó xác định rõ trách nhiệm, thời gian, nguồn lực triển khai, các giải pháp tạo đột phá. Kế hoạch hành động phát triền chính phủ số được xây dựng và triển khai đổng bộ với các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Căn cứ tình hình cụ thể, từng bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp quyết định xây dựng đề án, chương trình, chiến lược, kế hoạch lồng ghpp nội dung về chuyển đổi số trong hoạt động của mình. Nội dung chuyển đổi số quốc gia phải được chỉ đạo, giám sát, đánh giá định kỳ hằng năm, giữa nhiệm kỳ và mỗi 5 năm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với nghị quyết, chiến lѭợc, chѭơng trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành.
Về lộ trình thực hiện, việc phân biệt ra các mức độ phát triển, là chính phủ điện tử và chính phủ số, không có nghĩa là làm tuần tự, làm xong chính phủ điện tử rồi mới làm chính phủ số. Công cuộc chuyển đổi số ở Việt Nam thực tế vẫn chỉ mới ở giai đoạn đầu. Chuyển đổi số muốn hiệu quả thiết thực với cuộc sống thì phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, nhưng không nhất thiết phải tuần tự, không có nghĩa là đợi chuẩn bị đủ mới làm một lѭợt, bởi vì các nguồn dữ liệu quốc gia sớm tạo ra cho phpp ta từng bѭớc xây dựng chính phủ số trong khi hoàn thiện chính phủ điện tử. Cần bắt đầu ngay, làm từng cái một, từ những chuyện bị coi là nhӓ nhặt nhѭng đem lại lợi ích cho ngѭời dân. Cũng có thể chọn cách tiếp cận mang tính đột phá, đó là cái gì mà cơ quan, bộ, ngành, địa phương thấy khó nhất, hay gọi là nỗi đau lớn nhất, hoặc vấn đề gì đang nóng nhất, ngѭời dân đang bức xúc nhất thì mang ra để xem xpt giải quyết bằng công nghệ số. Có một cách tiếp cận nữa cũng rất hiệu quả là, để cho ngѭời dân, doanh nghiệp đề xuất với cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng những việc, những giá trị mà họ có thể tạo ra, hỗ trợ. Cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng xem xpt nếu thấy giá trị tạo ra cho lớn hơn chi phí thì cho làm. Đây là cách đѭa toàn dân vào tham gia đổi mới sáng tạo cho cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng. Không nên coi các ý tѭởng phát triển cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng là độc quyền của công chức nhà nѭớc. Thѭờng thì những đột phá, những giá trị lớn bất ngờ là xuất phát từ sáng tạo của trí tuệ nhân dân.
Chuyển đổi số là một quá trình lâu dài với tốc độ và quy mô khác nhau ở các quốc gia, ở các lĩnh vực khác nhau. Những bài học thành công và thất bại của chuyển đổi số chỉ ra rằng: cần có tầm nhìn xa và tổng thể, có lộ trình rõ và thực hiện theo từng bѭớc, thậm chí theo từng bѭớc nhӓ. Các bѭớc đi của chuyển đổi số cho một tổ chức gồm: (1) Nhận thức và tư duy mới, (2) Đặt ra chiến lược và lộ trình, (3) Xây dựng năng lực số (năng lực, hạ tầng, văn hóa), (4) Xác định công nghệ chính, (5) Thay đổi mô hình hoạt động và cuối cùng là (6) Chuyển đổi quy trình: từ nhӓ đến lớn. Sáu bѭớc này đѭợc xếp thành một vòng tròn nhắc nhở rằng, có những bước sẽ phải làm đi làm lại và làm liên tục trong khi vẫn phải tiến lên những bước tiếp theo.
Về quy trình các bѭớc trên, Tài liệu này thống nhất theo quan điểm của Hồ Tú Bảo, Tony Saldahna trong
Chuyển đổi số không phải là trào lưu. Báo Khoa học và Phát triển. https://khoahocphattrien.vn/ ngày 25/01/2022.
Các bước để thực hiện chuyển đổi số.
3. Đảm bảo các nguồn lực cho chuyển đổi số
a) Xây dựng nguồn nhân lực cho chính phủ số và phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý số
- Đào tạo, nâng cao nhận thức cho cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nước các cấp về phát triển chính phủ số;
- Tổ chức đào tạo đội ngũ chuyên gia về chính phủ số tạo lực lѭợng nòng cốt, lan tӓa kiến thức, kỹ năng cho phát triển chính phủ số tại các bộ, ngành, địa phѭơng. Các chuyên gia chính phủ số trѭớc hết phải nắm bắt đѭợc các xu thế công nghệ mới, các bài học kinh nghiệm, quy định pháp luật, mô hình, quy định kỹ thuật trong triển khai chính phủ số. Xây dựng mạng lѭới chuyên gia về chính phủ số để học tập, chia sẻ tri thức, phối hợp giải quyết các vấn đề lớn;
- Tổ chức đào tạo, bồi dѭỡng kỹ năng số, kỹ năng phân tích và xử lý dữ liệu cho cán bộ, công chức, viên chức hằng năm để sẵn sàng chuyển đổi môi trѭờng làm việc sang môi trѭờng số. Xây dựng khung đánh giá kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức;
- Đѭa nội dung đào tạo về chính phủ số vào chѭơng trình đào tạo của các trѭờng, cơ sở đào tạo cán bộ, công chức, viên chức, các trѭờng đào tạo chuyên ngành về công nghệ thông tin và truyền thông;
- Thu hút lực lѭợng chuyên gia cao cấp trong và ngoài nѭớc có kinh nghiệm triển khai tham gia đào tạo trong các chѭơng trình đào tạo; xây dựng mạng lѭới chuyên gia về chính phủ số;
- Tổ chức đào tạo, bồi dѭỡng kỹ năng số, phѭơng pháp giảng dạy cho đội ngũ giáo viên các cấp học để nâng cao năng lực giảng dạy về công nghệ số;
- Xây dựng hệ thống thao trѭờng mạng và thѭờng xuyên tổ chức huấn luyện, diễn tập đảm bảo an toàn, an ninh mạng cho chính phủ số.
Đối với công nghệ thông tin, vì phải triển khai, vận hành hệ thống công nghệ thông tin, phải đào tạo ngѭời dùng. Những việc này lại phải làm ở từng cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng nên rất thiếu cán bộ công nghệ thông tin. Với công nghệ số thì không có các bài toán này. Tất cả là trên điện toán đám mây, chỉ cần đăng ký vào để dùng một hệ thống dùng chung. Vấn đề quan trọng là nâng cao năng lực quản lý số, lãnh đạo số cho cán bộ, công chức để có khả năng đặt ra mục tiêu cần đạt đѭợc, lѭợng hoá giá trị cần tạo ra để biết chi phí tối đa có thể chi.
Nhà lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số là ngѭời đứng đầu, các công chức tham mѭu chiến lѭợc cho tổ chức, có tầm nhìn, thiết lập đѭợc sứ mệnh cho tổ chức, có niềm tin là công nghệ số, chuyển đổi số giúp giải quyết những vấn đề nhức nhối của tổ chức mình, và kiên định với mục tiêu đặt ra. Nhà lãnh đạo chuyển đổi số không nhất thiết và không cần phải hiểu về công nghệ số. Điều quan trọng nhất đối với nhà lãnh đạo là biết đặt ra bài toán299.
Những năng lực lãnh đạo truyền thống nhѭ tự tin, biết ứng xử, chuyên nghiệp, ra quyết định hiệu quả đòi hӓi ở mức độ cao hơn và phức tạp hơn trong bối cảnh chuyển đổi số trong khu vực công. Ngoài những năng lực chung và năng lực chuyên môn còn cần xây dựng và nâng cao năng lực của ngѭời lãnh đạo, quản lý thực hiện cải cách số, chuyển đổi số sau:
- Có tầm nhìn và tѭ duy chiến lѭợc. Lãnh đạo chuyển đổi số đѭợc xem là ngѭời có tầm nhìn, tạo dựng bức tranh tổng thể về chiến lѭợc phát triển của tổ chức, xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ, kiến tạo thể chế, xác định cách tiếp cận để thiết lập và hình thành lô gích của hành động, đánh giá và xác định đúng về sự tác động qua lại và lợi ích của các bên liên quan tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
- Năng lực thực hiện đổi mới sáng tạo, linh hoạt với sự thay đổi, khả năng thích ứng nhanh. Lãnh đạo trong kỷ nguyên số để đạt đѭợc thành công cần sẵn sàng thay đổi tѭ duy và dẫn dắt sự thay đổi, áp dụng cách tiếp cận mới, chủ động tìm kiếm các sáng kiến chuyển đối số, đặc biệt là trong vấn đề hoạch định chiến lѭợc, chính sách chuyển đổi số tối ѭu nhất và ra quyết định quản lý liên quan đến thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy, cải tiến, tái cấu trúc các quy trình nghiệp vụ và tạo ra những sản phẩm dịch vụ số mới trong hệ thống quản lý nhà nѭớc.
- Năng lực quản lý nhân sự phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số. Đó là mở rộng quyền và tạo sự tự do, sáng tạo cho nhân viên để họ mạnh dạn đề xuất và thực hiện các thử nghiệm mới. Thay đổi văn hóa tổ chức, đề cao tính cá nhân, hѭớng nhân viên tới kết quả công việc, tạo động lực, trách nhiệm, cảm hứng, gây ảnh hѭởng tốt với nhân viên, biết phát huy tiềm năng, năng lực của nhân viên, biết hợp tác thực hiện cơ chế phản hồi, biết phát triển nhân viên, phát triển nhóm, chú trọng và sử dụng các phѭơng pháp linh hoạt trong đào tạo, nâng cao trình độ và phát triển năng lực cho nhân viên và nhóm.
- Bản thân ngѭời lãnh đạo, quản lý phải trở thành là tấm gѭơng đi tiên phong, mạnh mӁ trong việc khai thác những ѭu thế và tích cực trong thực hiện chiến lѭợc chuyển đổi số trong tổ chức, biết phân tích và sử dụng dữ liệu theo cách tối ѭu nhất. Lãnh đạo số phải biết chịu trách nhiệm về kết quả chuyển đổi số, biết đánh giá, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, rút kinh nghiệm từ những thất bại của cải cách số, xác định điều kiện đảm bảo để biến thất bại thành là động lực hѭớng tới thành công.
b) Xây dựng hạ tầng số và các nền tảng số
Hạ tầng số đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế số, xã hội số. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hạ tầng viễn thông sӁ chuyển dịch thành hạ tầng số bao gồm hạ tầng viễn thông và điện toán đám mây. Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ di động 5G, làm chủ hạ tầng điện đám mây (cloud) thông qua các nền tảng Make in Viet Nam. Bên cạnh phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, việc làm chủ hạ tầng số, làm chủ dữ liệu của ngѭời Việt là nhiệm vụ chiến lѭợc, cần đѭợc ѭu tiên hàng đầu.
Ngành Thông tin và Truyền thông cũng định hѭớng hạ tầng bѭu chính chuyển đổi từ chuyển phát thѭ báo thành hạ tầng của dòng chảy vật chất phục vụ cho nền kinh tế số. Bên cạnh dòng chảy dữ liệu, hạ tầng bѭu chính sӁ trở thành một huyết mạch của thѭơng mại điện tử. Bѭu chính đѭợc giao trọng trách phục vụ phát triển chính phủ số, cải cách hành chính, góp phần đѭa dịch vụ công lên mức độ 3, 4; đồng thời bảo đảm an toàn tuyệt đối dịch vụ bѭu chính phục vụ cơ quan Đảng và Nhà nѭớc từ Trung ѭơng tới địa phѭơng.
Phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chính phủ số, chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nhanh hơn ở chỗ các nền tảng đã sẵn sàng đѭa vào sử dụng, dùng chung. Giảm chi phí ở chỗ không cần đầu tѭ kinh phí và thời gian phát triển mới từng phần mềm. Dịch vụ đѭợc cung cấp qua các nền tảng số sӁ ngày càng rẻ nhѭ hoá đơn điện nѭớc nếu có lѭợng ngѭời dùng lớn. Và vì vậy, chuyển đổi số dựa trên các nền tảng số sӁ trở nên hiệu quả.
Ngành Thông tin và Truyền thông định hѭớng phát triển hệ sinh thái các nền tảng số đáp ứng nhu cầu của ngѭời dân Việt Nam và từ đó đi ra thế giới. Mở rộng không gian mạng quốc gia thông qua mở rộng phạm vi hoạt động của các nền tảng số Make in Viet Nam. Việt Nam cần nhiều hơn nữa các nền tảng số Make in Viet Nam có khả năng đi ra toàn cầu để chiếm lĩnh những không gian mới.
c) Xây dựng không gian mạng quốc gia hѭớng tới phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, nhân văn và rộng khắp
Nếu coi chuyển đổi số là một vũ khí sắc bpn để mở rộng không gian mạng quốc gia, thì an toàn, an ninh mạng sẼ là chiếc khiên vững chắc bảo vệ thành quả của chuyển đổi số. An toàn, an ninh mạng phải song hành và trở thành một phần không thể tách rời của chuyển đổi số.
Phát triển hạ tầng số an toàn (SAFE), tin cậy (TRUST), tạo niềm tin số cho xã hội khi tham gia vào các hoạt động trên không gian mạng, từ đó thúc đẩy
kinh tế số, xã hội số phát triển. Mỗi ngѭời dân sở hữu một danh tính số và đѭợc xác thực khi tham gia vào các dịch vụ trực tuyến để bảo đảm an toàn và nâng cao mức độ tin cậy của các dịch vụ. Phổ cập định danh và xác thực điện tử sӁ góp phần tạo ra một không gian mạng quốc gia an toàn, văn minh và rộng khắp.
d) Đảm bảo nguồn kinh phí tài chính cho chuyển đổi số
Khi thực hiện chuyển đổi số thì phải tính đѭợc giá trị do chuyển đổi số mang lại, thí dụ tiết kiệm lao động, giờ lao động, tiết kiệm chi phí thѭờng xuyên, giá trị mới do chuyển đổi số mang lại. Những giá trị vô hình, dài hạn thì vẫn phải tìm cách lѭợng hoá. Giá trị tạo ra mà lớn hơn chi phí chuyển đổi số thì tức là hiệu quả. Chuyển đổi số không phải là một chi phi tăng thêm mà phải là một giá trị tăng thêm. Để tránh các tai nạn đã từng xảy ra trѭớc đây với CNTT thì tỉnh luôn phải coi chi cho chuyển đổi số nhѭ một dự án đầu tѭ hiệu quả.
Mỗi cơ quan, tổ chức căn cứ vào chiến lѭợc chuyển đổi số của mình để có mức chi phù hợp. Đối với các cơ quan nhà nѭớc cấp bộ, cấp tỉnh, tỷ lệ chi cho chuyển đổi số nên ở mức 1% tổng chi ngân sách nhà nѭớc hàng năm. Nếu muốn đẩy nhanh, nhất là những năm đầu cần làm ngay các nền tảng, thì có thể chi 2%. Mỗi tổ chức, doanh nghiệp cần dành ít nhất 10% mức chi cho chuyển đổi số để chi cho các hoạt động bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế thì vấn đề đặt ra với Chính phủ là:
- Ưu tiên sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nѭớc và huy động các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật để phát triển chính phủ số; tăng cѭờng thực hiện giải pháp thuê dịch vụ công nghệ thông tin;
- Xây dựng chѭơng trình đầu tѭ công để thực hiện các dự án phát triển hạ tầng, trung tâm dữ liệu, cơ sở dữ liệu quốc gia, nền tảng quốc gia, các ứng dụng, dịch vụ quốc gia sử dụng vốn đầu tѭ công do ngân sách trung ѭơng đảm bảo.
Hiện nay, cả nѭớc đang đẩy mạnh triển khai thực hiện chuyển đổi số, do đó, ngân sách nhà nѭớc chi cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số cũng đѭợc quan tâm, bố trí. Nhằm tăng cѭờng hiệu lực thực thi pháp luật và hiệu quả công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nѭớc cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, khoa học, phòng tránh sớm các rủi ro, sai phạm, tiêu cực, các Bộ, ngành và địa phѭơng hoàn thành ban hành các nghị quyết, chѭơng trình, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm việc đầu tѭ và sử dụng các nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nѭớc đѭợc sử dụng đúng nội dung, đúng mục tiêu, đúng nguồn kinh phí, tiết kiệm, hiệu quả. Việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nѭớc cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số cần thực hiện đúng quy trình, thủ tục và quy định pháp luật hiện hành về quản lý đầu tѭ, ngân sách nhà nѭớc, đấu thầu301.
4. Xây dựng văn hóa số và quản lý các rủi ro trong chuyển đổi số
a) Xây dựng văn hóa số trong cơ quan nhà nѭớc
Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa, đòi hӓi các cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới chấp nhận và ứng phó với các rủi ro.
Cùng với lãnh đạo đúng đắn, yếu tố quan trọng cho thành công của chuyển đổi số chính là và văn hóa tổ chức hỗ trợ cho những thay đổi. Khi mà chuyển đổi số chѭa có tiền lệ, còn nhiều vấn đề chѭa rõ ràng, hơn nữa văn hoá với những giá trị, niềm tin cần phải đѭợc nhận thức đúng đắn để có thể quản lý đúng và thực hành hiệu quả302.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rất ít ngѭời ủng hộ bởi tâm lý e sợ vì đã quen với việc ổn định. Đặc biệt là khi đầu tѭ công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả thực thi công việc, nhiều ngѭời viện đủ loại các lý do để không chịu đi học nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của công nghệ hiện đại. Tâm lý ngại thay đổi dẫn tới hạn chế tѭ duy và tâm thế đổi mới; sự tìm đѭợc giải pháp hoàn hảo và tránh đѭợc những rủi ro. Tâm lý e ngại thay đổi không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn mà còn do tình trạng np tránh trách nhiệm, không hào hứng với thay đổi, dẫn tới sức ì.
Nguyên tắc làm việc truyền thống cấp dѭới phục tùng tuyệt đối cấp trên dẫn tới thói quen không phản hồi: cấp trên không kịp thời xử lý thông tin với những lý do chính đáng và không chính đáng. Trong khi chuyển đổi số đòi hӓi thông tin phải đѭợc xử lý nhanh chóng, tức thì, khiến cho công việc bị ngѭng trệ trong khi cấp dѭới ngại nhắc nhở. Chuyển đổi số về bản chất còn là việc đѭa tới tѭ duy có làm hay không làm một cách rõ ràng và dứt khoát. Nhѭ vậy, chuyển đổi số phải gắn với tѭ duy số, không những số hóa quy trình, thao tác mà còn phải số hóa cả tѭ duy.
Chuyển đổi số có thể là môi trѭờng thuận lợi giúp hạn chế tính bảo thủ, quan liêu của nền công vụ, khi mà văn hóa chuyển đổi số đòi hӓi sự linh hoạt và nhạy bpn. Điều này buộc các quy trình, thủ tục giải quyết công việc phải khoa học, thông suốt, trôi chảy, nhanh chóng, đѭợc kiểm soát chặt chӁ. Bên cạnh đó, cũng cần linh hoạt trong việc tiếp thu ý kiến, phản hồi. Một nền công vụ đổi mới chỉ có thể tồn tại trong dòng chảy mãnh liệt của chuyển đổi số nếu nó thực sự linh hoạt và kịp thời thích nghi với thay đổi và những điều mới mẻ.
Nền công vụ nhѭ một thực thể sống, luôn vận động và phát triển. Cải cách công vụ trong thời đại chuyển đổi số phải hѭớng tới hình thành và duy trì thói quen sử dụng chính công nghệ số để tạo ra các nền tảng, các hệ thống quản lý, trong đó, các thói quen cần có đã đѭợc hình thành và củng cố trong chính nền tảng và hệ thống để mỗi thành viên của tổ chức khi làm việc buộc phải tuân thủ. Sự tuân thủ nhѭ vậy đòi hӓi phải vѭợt qua những rào cản không thể tránh khӓi nhѭ: ý thức lãnh đạo (không phải nhận thức) nhiều khi đòi hӓi cấp dѭới phải thay đổi trong khi chính mình lại ít quan tâm; tốc độ lãnh đạo, quản lý không theo kịp tốc độ thay đổi của thời đại và tính chất của các nhiệm vụ có liên quan; các xung đột nội bộ do sự thay đổi khiến cho các bộ phận trở nên thiếu đồng bộ, nếu không đѭợc kiểm soát tốt thì có thể tạo nên sự nghi kị, ỷ lại hoặc bất hợp tác, có thể dẫn tới cản trở lẫn nhau.
Để thích ứng với môi trѭờng cạnh tranh và thay đổi đòi hӓi cán bộ, công chức cấp cao biết làm việc trong lĩnh vực chѭa đѭợc nghiên cứu, chѭa đѭợc biết rõ, có khả năng ra quyết định trong điều kiện bất định và tạo những đổi mới với nguồn lực hạn chế, đồng thời có khả năng làm rõ và sử dụng những điều bất định cho mục đích của mình, thích ứng nhanh với các điều kiện mới. Nhà lãnh đạo trong kỷ nguyên số cần có tѭ duy phân tích, tѭ duy hệ thống và tѭ duy phản biện ở mức độ cao, biết nhận ra bản chất vấn đề, biết xem xpt vấn đề từ nhiều góc độ, biết mở rộng vấn đề, liên kết vấn đề, có khả năng suy nghĩ trên nhiều phѭơng án, tính đến những vấn đề không dự báo hết đѭợc trong bối cảnh luôn có sự thay đổi, bất định và phức tạp.
Tóm lại, nhѭng chuyển đổi số không chỉ là công nghệ số, mà quan trọng hơn, chuyển đổi số là chấp nhận cái mới, do đó, chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tѭ duy, nhận thức, thể chế, chính sách và định hình một nền văn hoá công vụ mới - văn hoá số trong quản lý nhà nѭớc, cuộc cách mạng lớn lao hơn một cuộc cách mạng công nghệ đơn thuần.
b) Quản lý các rủi ro trong chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số tạo ra một không gian sống mới, gọi là không gian mạng. Cuộc sống đã và đang vào không gian mạng nhanh hơn so với hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật và vì vậy, các nguy cơ là không nhӓ. Vì không thể không có rủi ro nên cách tiếp cận sӁ là quản lý rủi ro, tối thiểu rủi ro, khi rủi ro xảy ra thì khả năng hồi phục là quan trọng nhất.
Các rủi ro chính trong chuyển đổi số quốc gia có thể đѭợc nhận diện và phân loại nhѭ sau:
Thứ nhất, là các rủi ro từ góc độ kỹ thuật, công nghệ gồm:
- Rủi ro về công nghệ, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ số: là các rủi ro liên quan đến công nghệ sẵn có trên thị trѭờng chѭa phổ biến hoặc công nghệ chѭa có trên thị trѭờng; rủi ro về trục trặc/hӓng hóc của ứng dụng và khả năng thực hiện chức năng nhѭ mong muốn đặt ra ban đầu của ứng dụng; rủi ro liên quan đến việc công nghệ kỹ thuật bị lạc hậu trѭớc khi sản phẩm dự án kết thúc vòng đời hoạt động và không thể thực hiện chức năng của nó nhѭ dự kiến và mong muốn ban đầu; rủi ro do không có cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai các dịch vụ, ứng dụng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử hoặc cơ sở hạ tầng chѭa đáp ứng
- Rủi ro về an toàn, an ninh thông tin: là các rủi ro liên quan đến tính toàn vẹn/khả năng bị tấn công của hệ thống thông tin; Rủi ro liên quan đến sự mất mát/sử dụng thông tin, dữ liệu sai mục đích; rủi ro về trục trặc, hӓng hóc kỹ thuật của ứng dụng; rủi ro liên quan đến an ninh/khả năng bị tấn công của hệ thống và giữa các hệ thống; Rủi ro liên quan đến sự mất mát hoặc lạm dụng dữ liệu, thông tin, rủi ro về nguy cơ mất, lộ lọt đối với thông tin bí mật quốc gia dẫn tới mất chủ quyền số quốc gia, thông tin về ngѭời dân và doanh nghiệp, lộ lọt dữ liệu cá nhân và quyền riêng tѭ.
- Rủi ro về tính độc lập và độ tѭơng thích, liên thông của hệ thống đѭợc đầu tѭ với các hệ thống khác: là các rủi ro liên quan đến tính tѭơng thích, liên thông, liên kết tích hợp giữa các hệ thống; rủi ro về việc hệ thống tѭơng thích nhѭng không mang lại kết quả nhѭ mong muốn
Thứ hai, là các rủi ro từ góc độ quản lý gồm:
- Rủi ro về chiến lѭợc, chính sách, pháp lý: các đề xuất không đạt đѭợc kết quả nhѭ mục tiêu đề ra; rủi ro liên quan đến sự chồng chpo, trùng lặp do chiến lѭợc, chính sách không thống nhất, đồng bộ; thiếu và chѭa đồng bộ trong các quy định pháp lý.
- Rủi ro về quản lý hoạt động và thay đổi: rủi ro liên quan do chѭa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai xây dựng chính phủ điện tử hѭớng tới chính phủ số. Rủi ro liên quan đến lề lối, phѭơng thức làm việc, thói quen sử dụng của ngѭời dân, của cán bộ xử lý, việc tránh np, ít/không sử dụng, sử dụng với hệ thống không phù hợp; đào tạo chѭa hiệu quả
- Rủi ro về nguồn lực: Rủi ro liên quan đến tính toán sai chi phí ban đầu dẫn đến tăng chi phí; thiếu vốn, không có vốn, cắt vốn; nhân sự không đủ; năng lực, trình độ chuyên môn không đáp ứng
- Rủi ro về hoạt động phối hợp: Rủi ro liên quan về thiếu hợp tác và đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phѭơng và ngay trong chính nội bộ cơ quan, đơn vị.
- Rủi ro về tính khả thi, hiệu quả: Rủi ro liên quan đến phѭơng án đề xuất ban đầu không đạt đѭợc kết quả nhѭ mong muốn; rủi ro về những mục tiêu, chỉ tiêu, công việc của kế hoạch triển khai không đạt đѭợc; rủi ro về hiệu quả đặt ra không đạt đѭợc
- Rủi ro về thời hạn: Rủi ro liên quan đến sự lùi, hoãn hoặc chậm thời hạn nhiệm vụ; không đảm bảo tiến độ, không đạt đѭợc các mốc công việc đã định ra theo kế hoạch đѭợc Bộ, tỉnh duyệt hoặc theo thời hạn đѭợc Chính phủ/Thủ tѭớng Chính phủ giao.
Ngoài ra, còn có các rủi ro khác nhѭ vấn đề độc quyền: rủi ro liên quan đến lựa chọn đầu tѭ phụ thuộc vào công nghệ hoặc ứng dụng mà khi tiến hành mua sắm chỉ có thể lựa chọn từ một nhà thầu hoặc một nhà cung cấp đặc thù hay các rủi ro khác gắn với thiên tai, thảm họa303.
Trong quản lý rủi ro chuyển đổi số quốc gia cần đảm bảo một số yêu cầu:
- Rủi ro cần đѭợc dự báo trѭớc, cần phân loại đѭợc các rủi ro, xác định nguyên nhân, đánh giá xác xuất xảy ra rủi ro, đánh giá mức độ ảnh hѭởng của rủi ro và đề xuất phѭơng án giảm thiểu rủi ro.
- Cần sẵn sàng chuẩn bị cho việc giải quyết tình huống rủi ro khi đã xảy ra, làm nhẹ bớt đi các tác động xấu hơn.
- Quản lý rủi ro đòi hӓi phản ứng nhanh chóng và quyết đoán, thực hiện các bѭớc thận trọng, chính xác, không để rủi ro kpo dài gây ảnh hѭởng xấu. Đảm bảo phối hợp hiệu quả, tránh quan liêu, máy móc.
- Thường xuyên thu thập và cập nhật thông tin để đѭa ra các quyết định, lựa chọn các phѭơng án phù hợp với điều kiện, khả năng và tình huống cụ thể và hành động cho phù hợp với tình hình. Mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, địa lý, môi trѭờng, khí hậu cũng nhѭ trình độ kinh tế xã hội, năng lực và dân trí khác nhau nên biểu hiện của các loại rủi ro không giống nhau. Mỗi quốc gia có tiềm lực kinh tế khác nhau, sử dụng nguồn lực kinh tế tài chính cần có sự tính toán cân đối giữa phát triển kinh tế, cải thiện xã hội và phòng chống rủi ro. Mỗi tình huống, vụ việc rủi ro cũng khác nhau. Vì vậy trong giải quyết rủi ro cần tính đến đặc điểm, bối cảnh cụ thể.
- Đảm bảo kênh thông tin cởi mở, công khai. Trong quản lý nhà nѭớc không vì sự trách nhiệm, sợ khuyết điểm mà bѭng bít thông tin. Bѭng bít thông tin có thể gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin của xã hội hay trở thành nguy cơ rủi ro khác là do không áp dụng các biện pháp phòng tránh kịp thời.
- Đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể có thể đòi hӓi những yêu cầu và phѭơng pháp riêng phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi ngành, lĩnh vực.
5. Đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
a) Khái quát về đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
Mục đích đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia nhằm theo dõi, nhận định xác thực, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số theo định kỳ; so sánh, xác định các thế mạnh và các thách thức trong chính phủ điện tử, chính phủ số, từ đó đѭa ra các chính sách và chiến lѭợc phù hợp trong quá trình triển khai thực hiện Chѭơng trình Chuyển đổi số quốc gia. Việc đánh giá đѭợc thực hiện thông qua các bộ chỉ số đánh giá - là công cụ đo lѭờng chuẩn ở cấp độ quốc tế, quốc gia, cũng nhѭ ở cấp độ các bộ, ngành và địa phѭơng.
Bộ chỉ số là căn cứ để các quốc gia xác định tính hiệu quả của chuyển đổi số đạt đѭợc ở mức nào, đâu là những hạn chế cần cải thiện. Để từ đó ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho chuyển đổi số sâu rộng ở cấp độ quốc gia cũng nhѭ trong ngành và địa phѭơng quản lý. Ở góc độ này, bộ chỉ số chuyển đổi số sӁ là "chỉ dấu" quan trọng để biết tính hiệu quả của chuyển đổi số đạt đѭợc ở mức nào; đâu là những hạn chế cần cải thiện.
b) Bộ chỉ số đo lѭờng, đánh giá Chuyển đổi số ở Việt Nam
Thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trong Chѭơng trình Chuyển đối số quốc gia ở Việt Nam và Chiến lѭợc phát triển Chính phủ điện tử hѭớng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hѭớng đến năm 2030, trên cơ sở nghiên
cứu các bộ chỉ số quốc tế, từ năm 2020 đã triển khai Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh thành phố trực thuộc trung ѭơng (gọi tắt là bộ chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh, cấp quốc gia - DTI). Bộ chỉ số đo lѭờng, đánh giá Chuyển đổi số ở Việt Nam cũng đѭợc xây dựng trên các nguyên tắc chung, khung đánh giá của Liên hợp quốc và cụ thể hóa phù hợp với các mục tiêu và điều kiện ở Việt Nam. Bộ chỉ số chuyển đổi số bao gồm 03 cấp: cấp bộ, cấp tỉnh và cấp quốc gia.
- Chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng. Chỉ số chuyển đổi số năm 2020 cấp tỉnh đѭợc cấu trúc theo 3 trụ cột (pillar) là: Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số, Trong mỗi trụ cột đều có 7 chỉ số chính với tổng 108 chỉ số thành phần và 306 tiêu chí (57 tiêu chí đѭợc thực hiện khảo sát ngѭời dân, Chính phủ điện tử, các công chức). Mỗi trụ cột đều có 07 chỉ số chính và các chỉ số thành phần, tiêu chí tѭơng ứng, cụ thể: Chính quyền số có 45 chỉ số thành phần và 133 tiêu chí; kinh tế số có 2 chỉ số thành phần và 101 tiêu chí; xã hội số có 27 chỉ số thành phần và 72 tiêu chí. 7 chỉ số chính gồm: Chỉ số đánh giá về Chuyển đổi nhận thức; Chỉ số đánh giá về Kiến tạo thể chế; Chỉ số đánh giá về Phát triển Hạ tầng và nền tảng số; Chỉ số đánh giá về Thông tin và Dữ liệu số; Chỉ số đánh giá về Hoạt động chuyển đổi số; Chỉ số đánh giá về An toàn, an ninh mạng; Chỉ số đánh giá về Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số.
- Chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong đó khối bộ đѭợc chia là 2 nhóm: bộ có cung cấp dịch vụ công và bộ không cung cấp dịch vụ công. Chỉ số chuyển đổi số cấp bộ không đánh giá riêng theo các trụ cột nhѭ cấp tỉnh mà đánh giá chung chỉ số chuyển đổi số của bộ để đảm bảo những tiêu chí đánh giá là tѭơng đồng, phù hợp với đặc điểm của mỗi bộ phụ trách một trụ cột khác nhau.
Bộ chỉ số chuyển đổi số 2020 cấp bộ cũng gồm 7 chỉ số chính nhѭ chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, trong mỗi chỉ số chính có những chỉ số thành phần khác nhau và trong mỗi chỉ số thành phần có các tiêu chí (đánh giá qua số lѭợng báo cáo - điều tra xã hội học, sắc thái thông tin trên không gian mạng, phỏng vấn các chuyên gia). Có 41 chỉ số thành phần và 111 tiêu chí (109 tiêu chí đѭợc thực hiện đánh giá từ số liệu thu thập của bộ, ngành báo cáo; 2 tiêu chí đѭợc thực hiện khảo sát ngѭời dân, Chính phủ điện tử).
- Bộ chỉ số chuyển đổi số quốc gia đѭợc cấu trúc theo 3 trụ cột là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Chỉ số này cũng gồm 7 chỉ số chính nhѭ chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, trong mỗi chỉ số chính có các chỉ số thành phần.
Bộ chỉ số chuyển đổi số cấp bộ nhằm theo dõi, đánh giá, xếp hạng một cách thực chất, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số hàng năm các bộ, tỉnh. Còn Bộ chỉ số chuyển đổi số quốc gia không chấm điểm, xếp hạng, mà nhằm cung cấp thông tin về kết quả chuyển đổi số chung của cả nѭớc để báo cáo Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ và phục vụ các cơ quan, tổ chức liên quan cũng nhѭ cho các tổ chức quốc tế sử dụng khi đánh giá các chỉ số quốc tế.
Căn cứ theo kết quả đánh giá chuyển đối số cấp tỉnh và cấp bộ, các chỉ số thành phần và tiêu chí của Chỉ số chuyển đổi số quốc gia sӁ đѭợc Bộ Thông tin và Truyền thông quy định và điều chỉnh cho phù hợp thực tế.
Kết quả đánh giá chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh giúp cung cấp bức tranh tổng thể về chuyển đổi số ở Việt Nam, đồng thời theo dõi, đánh giá, xếp hạng một cách thực chất, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số hằng năm của các bộ, tỉnh, thành phố để có giải pháp thúc đẩy trong thời gian tới.
Căn cứ vào Bộ Chỉ số chuyển đổi số (DTI) cấp bộ và Bộ Chỉ số DTI cấp tỉnh năm 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiến hành đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số năm 2020 đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ѭơng. Kết quả đánh giá mức độ chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh năm 2020 lần đầu tiên công bố vào tháng 10/2021.
c) Một số nhiệm vụ đặt ra nhằm tiếp tục hoàn thiện đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
Xây dựng bộ chỉ số đo lѭờng triển khai chính phủ số và bộ công cụ giám sát, đánh giá là một trong những nội dung cả quản lý chuyển đổi số quốc gia với những nhiệm vụ cụ thể đѭợc đặt ra là:
- Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành, địa phѭơng cần tiếp tục nghiên cứu các chỉ số chuyển đổi số quốc tế; xây dựng và thѭờng xuyên cập nhật, bổ sung cho phù hợp trên cơ sở kế thừa và phát triển từ bộ chỉ số đo lѭờng Chính phủ điện tử.
- Các bộ, các tỉnh cần xây dựng và đѭa vào triển khai Chỉ số chuyển đổi số áp dụng trong nội bộ của bộ, tỉnh đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của bộ, tỉnh để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong công tác theo dõi, đánh giá chuyển đổi số, đồng thời cũng cần đảm bảo phù hợp và thể hiện rõ tính đặc thù từng lĩnh vực quản lý chuyên ngành.
- Xây dựng, lồng ghpp tiêu chí đánh giá về chính phủ điện tử, chính phủ số vào các bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI Index), bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index);
- Xây dựng bộ công cụ để giám sát, đánh giá mức độ, hiệu quả triển khai chính phủ điện tử, chính phủ số;
- Định kỳ hàng năm công bố kết quả đánh giá, làm cơ sở để theo dõi, đôn đốc, xếp hạng về chính phủ điện tử, chính phủ số; công khai trực tuyến các chỉ số chính trong phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số.
Trong xây dựng và hoàn thiện các bộ chỉ số đánh giá, cũng cần lѭu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trong bộ chỉ số chuyển đổi số chính phủ, các chỉ số đã tập trung đánh giá về dịch vụ công trực tuyến cho ngѭời dân và tổ chức, dữ liệu mở, qua đó giúp thấy đѭợc sự thay đổi và tác động qua lại giữa công dân - nhà nѭớc. Cần tiếp tục có thêm những chỉ số đánh giá mức độ chuyển đối số trong thực hiện các chức năng của nhà nѭớc nhѭ hoạt động thanh tra, kiểm tra, xây dựng pháp luật, chuyển đổi số các quy trình nội bộ để thấy rõ hơn mức độ tác động qua lại giữa các cơ quan nhà nѭớc với nhau và với công chức, viên chức trong hệ thống.
Thứ hai, việc đánh giá mức độ chuyển đổi số trong mỗi lĩnh vực cụ thể giúp đánh giá về mức độ gia tăng về số lѭợng sử dụng công nghệ số của công dân và tổ chức. Ở mức độ sâu hơn, có thể thêm những đánh giá so sánh đối chiếu về tính hiệu quả về thời gian và các nguồn lực khác khi sử dụng các công nghệ số, sự ảnh hѭởng của các quá trình chuyển đổi số đến nâng cao chất lѭợng thực hiện các chức năng của nhà nѭớc và dịch vụ công, giúp đánh giá đѭợc "kết quả đầu ra", phản ánh đѭợc hiệu quả thực chất của chuyển đổi số. Cách tiếp cận sӁ giúp tránh đѭợc cái bẫy của chuyển đổi số, tức là chuyển đổi số vì chuyển đổi số.
Thứ ba, phần lớn các chỉ số đѭợc phân tích dựa trên cơ sở sử dụng các số liệu thống kê cũng nhѭ kết quả khảo sát lấy ý kiến, cho phpp mở rộng lĩnh vực đánh giá, tính đến các yếu tố có thể đѭợc đánh giá về chất lѭợng. Mặt khác, việc sử dụng các kết quả đánh giá dựa trên khảo sát quá nhiều có thể ảnh hѭởng đến kết quả thu đѭợc. Vấn đề này có thể đѭợc giải quyết trên cơ sở kết hợp khảo sát lấy ý kiến một cách phù hợp với tăng cѭờng sử dụng các dữ liệu, số liệu về kết quả thực tế.
Thứ tѭ, trong nhiều chỉ số đѭợc phân tích tính đến các chỉ số đánh giá nguồn nhân lực. Trong điều kiện hình thành xã hội số, trình độ dân trí và giáo dục, mức độ tuyên truyền, phổ biến, tập huấn là cần thiết để đánh giá mức độ sẵn sàng với xã hội số, bao gồm cả mức độ tѭơng tác với chính quyền dѭới dạng số. Đồng thời cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các chỉ số phản ánh rõ hơn về mức độ phát triển kỹ năng số của cán bộ, công chức, viên chức và công dân.
QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
I. KHÁI QUÁT VỀ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Khái niệm chuyển đổi số và chuyển đổi số quốc gia
a) Khái niệm chuyển đổi số
Sự phát triển vượt bậc của công nghệ số vào phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay đѭa nhân loại bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số.
Có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về chuyển đổi số (digital transformation). Theo Gartner, chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới. Microsoft cho rằng, chuyển đổi số là việc tѭ duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi ngѭời, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới291. Còn theo quan điểm của FPT, chuyển đổi số là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới, như: dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)... làm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa tổ chức 292.
Các công nghệ số giúp ohuyển hóa thông tin từ thế giới thực thành thế giới ảo vật lý với dung lѭợng thông tin rất lớn, tốc độ cao và đa dạng tới mọi mặt của đời sống xã hội.
Theo Cẩm nang chuyển đổi số của Bộ Thông tin và Truyền thông, Chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi tổng thể và toàn diện cách sống, cách làm việc và phѭơng thức sản xuất của cá nhân, tổ chức. Đối với mỗi cá nhân, chuyển đổi số làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giao dịch với nhau. Còn đối với nhà nѭớc, chuyển đổi số dùng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi trải nghiệm ngѭời dùng với các dịch vụ do nhà nѭớc cung cấp, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi mô hình và phѭơng thức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước 293.
Chuyển đổi số có thể bị nhầm lẫn với khái niệm số hóa. Số hóa (Digitization) là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thѭờng sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn nhѭ chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng tѭơng tự (analog) sang phát sóng kỹ thuật số...). Trong khi đó, chuyển đổi số là khai thác các dữ liệu có đѭợc từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Có thể xem số hóa nhѭ một phần của quá trình chuyển đổi số.
Quá trình chuyển đổi số gồm các giai đoạn:
- Số hóa: Chuyển thông tin thực sang dạng số để dễ dàng lѭu trữ, tìm kiếm, chia sẻ. Ứng dụng kỹ thuật số vào các quy trình nghiệp vụ. Sử dụng phần mềm để làm cho các hoạt động trở lên đơn giản và hiệu quả hơn.
- Ứng dụng công nghệ số: Quá trình ứng dụng công nghệ số, dữ liệu số để đơn giản hóa, tối ѭu hóa, tăng hiệu quả của các hoạt động nhѭng chѭa thay đổi thực sự mô hình hoạt động.
- Chuyển đổi số: là cấp độ các cá nhân, các tổ chức sử dụng các công nghệ nhѭ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật để thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu một cách toàn diện và triệt để, từ đó dẫn đến sự thay đổi mô hình và cách thức hoạt động của tổ chức. Đây là một quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện, từ lãnh đạo cao nhất đến mọi thành viên của tổ chức, từ xây dựng năng lực số đến văn hóa số, xây dựng lộ trình và kế hoạch, từng bước thay đổi theo lộ trình.
Ví dụ, với chính phủ điện tử, ở cấp độ 1, văn bản ở dạng file doc/pdf, số hóa các số liệu thống kê, văn bản, tài liệu, sử dụng chữ ký số. Ở cấp độ 2 có trục liên thông văn bản, eCabinet, điều hành điện tử. Ở cấp độ 3, ví dụ, xử lý kiến nghị của người dân, doanh nghiệp giảm các cơ quan, tổ chức trung gian dựa trên AI, Robots. Các dịch vụ do Chính phủ cung cấp để giải quyết vấn đề an sinh của người dân được tùy biến theo nhu cầu.
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số có các mức khác nhau, hiện tại ở Việt Nam chủ yếu là mức số hóa và ứng dụng công nghệ số (tin học hóa). Việc thúc đẩy, hỗ trợ chuyển đổi số tương tự thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo với các công nghệ số. Công nghệ cho chuyển đổi số ở các mức độ khác nhau là khác nhau, ở mức chuyển đổi số toàn diện là các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (AI, IoT, Blockchain, điện toán đám mây, 5G, AR, in 3D, phân tích dữ liệu lớn; thực tại ảo tăng cường (AR), thực tại ảo hỗn hợp MR ).
b) Khái niệm chuyển đổi số quốc gia
Trong quá trình phát triển của kỷ nguyên số, chuyển đổi số là điều tất yếu mà các quốc gia trên thế giới đang hѭớng tới. Chuyển đổi số có tác động sâu rộng đến từng cá nhân, công dân, tổ chức, doanh nghiệp, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Chuyển đổi số trong tổ chức là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo mới hoặc sửa đổi các quy trình hoạt động và phương thức làm việc của tổ chức. Chuyển đổi số trong doanh nghiệp là quá trình sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo mới hoặc sửa đổi các quy trình kinh doanh, văn hóa và trải nghiệm khách hàng hiện có nhằm đáp ứng các yêu cầu thay đổi của thị trường và kinh doanh.
Chuyển đổi số quốc gia là quá trình chuyển đổi số ở cấp độ quốc gia để xây dựng một quốc gia số. Mục tiêu chuyển đổi quốc gia không chỉ là sử dụng công nghệ kỹ thuật số để tạo ra tác động lên tăng trưởng, năng suất, mạng lưới sản xuất toàn cầu, thành phần nhu cầu, thương mại và việc làm trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Mục tiêu của chuyển đổi số số cần bao gồm cả việc chuẩn bị môi trường cho chuyển đổi số, mục tiêu quản trị, mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu thể chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, hiện nhiều nước đã xây dựng và triển khai các chiến lược, chương trình quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển đổi số quốc gia của các nước có khác nhau, phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Nhìn chung, các quốc gia đều hướng tới các nội dung chính sau:
Một là, chuyển đổi số nền kinh tế (kinh tế số), bao gồm: phát triển các doanh nghiệp số; chuyển đổi số cho các doanh nghiệp truyền thống (hѭớng tới sản phẩm tích hợp số; chuyển đổi mô hình kinh doanh trên nền tảng số; thay đổi quy trình sản xuất dựa trên dữ liệu số, tự động hóa, ảo hóa, ); phát triển tài chính số; phát triển thương mại điện tử; chuyển đổi số trong một số ngành trọng điểm để phát triển kinh tế - xã hội như: giáo dục, y tế, nông nghiệp, du lịch, giao thông
Hai là, chuyển đổi số xã hội (xã hội số), trong đó tập trung vào các lĩnh vực như: ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khoảng cách xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn an ninh xã hội Xã hội số bao gồm công dân số và văn hóa số. Trong đó, công dân số là thế hệ công dân có khả năng truy cập các nguồn thông tin số, giao tiếp trong môi trường số, định danh và xác thực, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số; văn hóa số là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức của con người trong môi trѭờng số.
Ba là, chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước (chính phủ số). Chính phủ số là chính phủ sử dụng dữ liệu số để ra quyết định và coi dữ liệu như một loại tài nguyên, là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên dữ liệu được lượng hóa, phân tích và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính phủ số cũng là chính phủ kết nối, chia sẻ dữ liệu với người dân, cộng đồng doanh nghiệp nhằm cung cấp dịch vụ công thuận tiện cho doanh nghiệp, người dân, tăng cường sự tham gia người dân trong các hoạt động cơ quan nhà nước; tăng cường hiệu quả hoạt động và đổi mới trong các cơ quan nhà nước; phát triển dữ liệu mở của cơ quan nhà nước, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Việc tiến hành chuyển đổi số đòi hӓi, cùng với việc cung cấp các dịch vụ trực tuyến và cổng thông tin chính phủ điện tử hỗ trợ người dân thì cần phải có một quá trình chuyển đổi số của chính phủ. Đó là quá trình hiện đại hóa và phát triển các hệ thống trực tuyến dựa trên công nghệ thân thiện với người dùng, lấy người dùng làm trung tâm, định hướng chiến lược và cung cấp những trải nghiệm tốt hơn để đáp ứng nhu cầu của công dân tương tác với chính phủ đồng thời cải thiện cách thức hoạt động của hệ thống chính quyền. Quy trình hiện đại hóa này được gọi là chuyển đổi số chính phủ.
Chuyển đổi số quốc gia được thực hiện ở cấp trung ương và cấp địa phương. Ở cấp địa phương, chuyển đổi số là chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa phương đó. Địa phương chuyển đổi số thành công số đóng góp vào thành công chung của chuyển đổi số quốc gia.
2. Vai trò của chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số quốc gia mang lại những lợi ích, giá trị to lớn đối với cả quốc gia, doanh nghiệp và ngѭời dân.
- Đối với quốc gia, chuyển đổi số tạo bứt phá và thành công cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển trong việc nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và rút ngắn khoảng cách phát triển. Chính vì vậy, nếu quốc gia nào tận dụng tốt cơ hội mà chuyển đổi số mang lại thì số thành công.
Chuyển đổi số giúp tiết kiệm chi phí, minh bạch thông tin và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Chuyển đổi số đóng góp nhiều nguồn lực và giá trị mới cho phát triển kinh tế của các quốc gia. Chuyển đổi số còn đem lại những giải pháp thông minh, hiệu quả trong giải quyết các vấn đề xã hội và môi trѭờng, chẳng hạn như: xây dựng đô thị thông minh giúp hạn chế khí thải nhà kính, ô nhiễm môi trѭờng, tiết kiệm năng lượng, hạn chế được tình trạng tội phạm, ùn tắc, tai nạn giao thông...
- Đối với Chính phủ, chuyển đối số sử dụng dữ liệu và hệ thống công nghệ số nhằm thay đổi trải nghiệm ngѭời sử dụng với các dịch vụ công do Nhà nước cung cấp. Chuyển đổi số quốc gia còn giúp các cơ quan của nhà nѭớc bӓ qua những thủ tục cồng kềnh, mất thời gian trong khi xử lý công việc đem lại hiệu quả cao hơn. Người đứng đầu mỗi cơ quan dễ dàng kiểm soát, quản lý công việc thuận tiện hơn, dễ đánh giá hiệu quả của mỗi cán bộ trong công việc. Giảm nhân lực trong việc xử lý công việc, tinh gọn bộ máy, đơn giản thủ tục hành chính, tiết kiệm ngân sách trả lương cho cán bộ của nhà nước. Việc thay đổi hệ thống công nghệ cũng làm thay đổi nghiệp vụ, mô hình và phương thức hoạt động của bộ máy cơ quan nhà nước, từ điều hành quản lý cho đến hoạch định chiến lược.
Việc mỗi quốc gia chuyển đổi số số đem lại sự hoàn chỉnh tổng thể về thể chế pháp lý, đảm bảo cơ sở hạ tầng số. Từ đó người dân thuận lợi hơn trong việc nắm bắt thông tin và thuận lợi hơn trong các hoạt động xã hội.
Chuyển đổi số cũng đang dần thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những ngѭời đứng đầu các quốc gia, tổ chức, có khả năng quyết định hѭớng đi và sự thành công của quốc gia và tổ chức. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đã đầu tư rất nhiều vào hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho quá trình chuyển đổi số trước những lợi ích mà nó đem lại. Chính phủ các nước dần ứng dụng chuyển đổi số vào công tác xây dựng Nhà nước số, Chính phủ điện tử. Đồng thời cũng đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng những thành tựu của chuyển đổi số vào quá trình vận hành kinh doanh doanh nghiệp. Đối với hoạt động nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, các bộ máy chính quyền của nhiều quốc gia đã ngay lập tức áp dụng chuyển đổi số khi nhận thức được tầm quan trọng của nó.
- Đối với doanh nghiệp, đầu tiên là sự cắt giảm chi phí vận hành và tiếp cận nhiều khách hàng hơn, dễ dàng trong việc quản lý: ra quyết định nhanh chóng, nắm bắt tiến độ chính xác, tối ưu hóa công việc của nhân viên, mang lại hiệu quả trong hoạt động và nâng cao sự cạnh tranh. Đặc biệt, chuyển đổi số mang lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ, các công ty khởi nghiệp (startup). Nếu trước đây, các công nghệ kiểu cũ thì chỉ có các công ty lớn, có rất nhiều tiềm lực kinh tế mới có thể tiếp cận được thì bây giờ, công ty nhỏ hay startup mới đều có thể tiếp cận được công nghệ không thua kpm gì các những công ty lớn.
- Đối với người dân, việc chuyển đổi số số mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho người dân như: Khi thực hiện Chính phủ số, mỗi người dân sẽ được cấp một mã số định danh và được trải nghiệm các dịch vụ số hiện đại và được chăm sóc tốt hơn. Khi thực hiện kinh tế số, mỗi người dân, mỗi gia đình đều có thể trở thành một doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng theo cách chưa từng có. Khi thực hiện xã hội số số giúp xóa nhòa khoảng cách địa lý, tạo cơ hội bình đẳng, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân để Không ai bị bỏ lại phía sau. Chẳng hạn, học sinh ở miền núi có thể được học trực tuyến với những thầy giáo giỏi nhất ở Hà Nội. Một người lao động Việt Nam ở nước ngoài có thể nhận được những ý kiến tư vấn, chăm sóc y tế từ xa bởi những bác sĩ giỏi nhất ở các bệnh viện hàng đầu Việt Nam, với giá thành dịch vụ rẻ hơn gấp nhiều lần so với ở nước ngoài...
Đối với người tiêu dùng, chuyển đổi số cũng đang dần tác động vào trong cuộc sống khi có thể trải nghiệm các dịch vụ công hay các dịch vụ được cung cấp từ các doanh nghiệp ngày càng thuận tiện, nhanh chóng. Các giao dịch như: ngân hàng, mua sắm hoàn toàn có thể thực hiện qua mạng mà không cần phải đến tận nơi thực hiện.
Theo báo cáo của các tổ chức uy tín trên thế giới, quyết tâm chuyển đổi số mạnh mễ sự giúp các nước đang phát triển, trong đó có thể giúp Việt Nam tăng năng suất lao động lên từ 30 đến 40%, góp 20 đến 30% trong tăng trѭởng GDP, tránh được bẫy thu nhập trung bình294.
3. Các mô hình chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số là quá trình diễn ra toàn cầu của thế kỷ 21, nước nào đi trước và tận dụng cơ hội chuyển đổi số toàn diện nhất sẽ có đựợc ưu thế cạnh tranh vượt trội. Mặc dù định hướng mục tiêu chiến lược chuyển đổi số ở các quốc gia tương đồng nhau, nhưng các nhiệm vụ, giải pháp có thể khác nhau do mỗi quốc gia có hệ thống, phương pháp quản lý, vận hành khác nhau, có những thuận lợi và khó khăn khác nhau.
Ví dụ. Vương quốc Anh định hѭớng chiến lѭợc tập trung phát triển dịch vụ công số, ở Đức là ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, Trung Quốc tập trung xây dựng chính phủ số, hay Mỹ tập trung vào xây dựng doanh nghiệp số295.
Ở Anh, phát triển kinh tế số gắn chặt với chuyển đổi số các dịch vụ. Từ năm 2010 đã ban hành Luật Kinh tế số (Digital Economy Act). Các hệ thống đổi mới, cải tiến được hiện đại hóa, cho phép tạo dựng các quan hệ giữa tất cả những tổ chức tham qua vào quá trình chuyển đối số với nhà nước. Cục Đổi mới sáng tạo nhà nѭớc (Innovate UK) đѭợc thành lập để hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học lĩnh vực kỹ thuật robot và trí tuệ nhân tạo, tổ chức các cuộc thi và huy động các quỹ tài chính của doanh nghiệp và nhà nѭớc. Thị trѭờng các dịch vụ số ở Anh phát triển chủ yếu trong lĩnh vực tài chính và kinh doanh điện tử, giáo dục (RefMe, eSchools) và sức khӓe (Network Locum), xây dựng, giao thông vận tải đường sắt.
Mô hình của Singapore, Đan Mạch cũng chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ công số, triển khai hệ thống dữ liệu dùng chung đến nay hầu như 100% dịch vụ công được cung cấp cho người dân là trực tuyến, và để làm điều đó đã hoàn thành cấp mã số định danh công dân, an toàn thông tin được đảm bảo ở 2 cấp độ kiểm tra. Đội tình nguyên viên luôn túc trực ở các khu dân cư để hỗ trợ, hướng dẫn kịp thời. Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ cung cấp các dịch vụ interrnet miễn phí cho nhóm yếu thế, người già296.
Chính phủ Na uy đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh đổi mới công nghệ tới 50% cơ cấu đầu tѭ. Trong cơ cấu ngân sách cho các hoạt động chuyển đổi công nghệ chiếm 55% đầu tư nhà nѭớc, trong đó có cả chính sách cho những doanh nghiệp tham gia vào chuyển đổi số như ưu đãi thuế và hỗ trợ trực tiếp, một phần thông qua các quỹ. Ngân sách đầu tѭ tăng lên hàng năm, tập trung vào phát triển hạn tầng công nghệ, tài trợ cho các nghiên cứu và thu hút những nghiên cứu tốt nhất, quốc tế hóa các dự án.
Mô hình Nhật Bản dựa trên chính sách quốc gia Xã hội 5.0 năm 2016. Trong đó tập trung vào giải quyết các vấn đề xã hội số và kinh tế số. Chính phủ Nhât Bản triển khai chương trình kết nối các lĩnh vực (Connected Industries), bao gồm những hѭớng đổi mới như tự động hóa, phát triển kỹ thuật robot, và hạ tầng sản xuất, công nghệ sinh học, hóa học và thành phố thông minh. Chiến lược Xã hội 5.0 đảm bảo có lợi cho tất cả các bên: kinh doanh, khởi nghiệp công nghệ và Nhà nước, làm cho mô hình kinh tế số và xã hội số Nhật Bản trở thành ưu thế vượt trội.
Ở Đức, một mặt thuộc nhóm có tốt độ chuyển đổi số chậm hơn, nhưng mặt khác, chính sách hỗ trợ thúc đầy các công nghệ số lại đi đầu trong các nước. Mô hình Đức định hướng trọng tâm xây dựng nền sản xuất thông minh (smart manufacturing) nhờ cáс hệ thống tự động hóa (CPS). Vào năm 2015, liên bang đã thành lập nền tảng mạng Công nghiệp 4.0 trong kinh doanh, bao gồm quy định khung kiến trúc, quy đinh, tiêu chuẩn, các bộ phận đảm bảo an toàn thông tin, xây dựng cơ sở pháp lý, về đào tạo và nâng cao năng lực, về cấu trúc lại mối quan hệ giѭa bộ máy quyền lực nhà nước với sản xuất kinh doanh, tổ chức khoa học và với xã hội. Mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ ứng dụng công nghệ số trong các dây chuyền sản xuất lên đến 83%.
Châu Á là điểm nóng của việc tiếp cận kỹ thuật số và những quốc gia đang phát triển có tiềm năng to lớn nhờ vào tốc độ đột phá trong tiếp cận kỹ thuật số. Tại Trung Quốc, mô hình trên cơ sở ứng dụng tích cực các thành tựu thế giới trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mở rộng cho các công ty nước ngoài gia nhập thị trường rộng lớn của Trung Quốc với điều kiện bắt buộc, đó là đầu tư nước ngoài, vận hành và sở hữu Trung Quốc. Vào năm 2015 chương trình Interrnet + được thông qua với mục tiêu chính là đến năm 2049 hoàn thành phát triển xã hội số. Chương trình đặt mục tiêu nâng tỷ lệ kinh tế số trong cơ cấu GDP là từ 6-7% vào năm 2014 lên 35% đến năm 2020 và đến năm 2030 là 50%.
Hiện nay mô hình Trung Quốc cho phpp trong thời gian ngắn đạt được thành tựu lớn, đặc biệt những thành tựu lớn trong chế tạo các thiết bị điện tử cho ngành hàng không và y học. Vấn đề an ninh mạng đѭợc chú trọng và đang cố gắng tự chủ hoàn toàn.
Hiện nay trong các nghiên cứu, việc xác định các quốc gia theo các mô hình chuyển đổi số nào chủ yếu dựa trên kết quả chuyển đổi số đѭợc xếp theo thứ hạng theo các bộ chỉ số quốc tế. Các Bộ chỉ số quốc tế phổ biến đó là Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử và Chỉ số Phát triển số.
Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (E-Government Development IndexEGDI) được Liên hợp quốc sử dụng để đánh giá hai năm một lần cho tất cả 193 nước thành viên. Đây là bộ chỉ số tổng hợp trung bình về ba lĩnh vực quan trọng nhất của Chính phủ điện tử: dịch vụ công trực tuyến, hạ tầng viễn thông, nguồn nhân lực. EGDI được sử dụng để đo lường sự sẵn sàng và khả năng của một quốc gia trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và Truyền thông để cung cấp các dịch vụ công. Chỉ số này giúp cho các quốc gia, các tổ chức nghiên cứu, nhà hoạch định có sự hiểu biết sâu sắc hơn về điểm chuẩn so sánh của các vị trí tương đối của một quốc gia trong việc sử dụng Chính phủ điện tử cho các hoạt động, trách nhiệm công dân và khả năng cung cấp dịch vụ công. Mỗi bộ chỉ số tự nó là một thước đo tổng hợp có thể được tách ra và phân tích một cách độc lập. Năm 2020, Liên hợp quốc khởi động Chính phủ số trong thập kỷ hành động vì sự phát triển bền vững (Digital Government in the Decade of Action for Sustainable Development), theo đó các chỉ số đѭợc điều chỉnh để phù hợp hơn trong đánh giá mức độ phát triển của Chính phủ số.
Chỉ số Phát triển số (Digital Evolution Index - DEI) đã được đưa ra bởi Harvard Business Review trên cơ sở hợp tác với Trường Fletcher thuộc Đại học Tufts với sự hỗ trợ của Mastercard và DataCash nhằm đánh giá mức độ sẵn sàng cho nền kinh tế số và xã hội số của các quốc gia. Chỉ số DEI bao gồm 4 yếu tố chính: các yếu tố liên quan đến bên cung (bao gồm truy cập, thực hiện, và hạ tầng các giao dịch); các yếu tố liên quan đến bên cầu (bao gồm hành vi và xu hѭớng của ngѭời tiêu dùng, kiến thức thực tế về tài chính, Internet, và truyền thông xã hội); sự đổi mới (bao gồm hệ thống kinh doanh, công nghệ và huy động vốn, sự hiện diện và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mang tính chất rào cản cũng như của các ý tưởng và văn hóa khởi nghiệp); và thể chế (bao gồm tính hiệu quả của các chính sách của Chính phủ và vai trò của Chính phủ trong điều tiết doanh nghiệp, ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật cũng như thúc đẩy môi trường kỹ thuật số).
Từ kết quả của các bộ chỉ số trên, các quốc gia được xếp hạng và chia nhóm theo 4 mô hình phát triển chính sau:
- Mô hình phát triển đi đầu (Stand Out): các quốc gia có trình độ phát triển công nghệ rất cao và có động lực phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, duy trì được động lực như vậy là một thử thách và các quốc gia này cần giữ được guồng quay sáng tạo và khai thác thêm nhiều nhu cầu mới. Thuộc nhóm này có các quốc gia như Đan Mạch, Estonia, Anh, Mỹ Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông, Israel, các nѭớc Bắc Âu.
- Mô hình phát triển chững lại (Stall Out): các quốc gia phát triển công nghệ cao thành công và đang tận hưởng thành quả từ công cuộc đó nhưng không thể hiện động lực phát triển hơn nữa. Điều các quốc gia này cần làm là loại bỏ những yếu tố cản trở sự sáng tạo và tự đổi mới chính mình. Thuộc nhóm này là Úc, các nước Tây Âu như Đức, Hà Lan, Iceland
- Mô hình phát triển bứt phá (Break out): các quốc gia chỉ đạt điểm thấp về thành quả công nghệ số hóa nhưng có mức độ tăng trưởng rất ấn tượng với động lực lớn, có thị trường tiềm năng và sức hấp dẫn mạnh mẽ với các nhà đầu tư. Để tận dụng hết những lợi thế này, họ cần xây dựng nhiều cơ chế tốt hơn để khuyến khích và nuôi dѭỡng sự sáng tạo. Thuộc nhóm này là Trung Quốc, Kenia, Nga, Ấn Độ, Malaisia, Philippin, Braxil, Chi lê
- Mô hình phát triển cầm chừng (Watch Out): các quốc gia có kết quả số hóa và động lực phát triển đều thấp với những lỗ hổng về cơ sở hạ tầng, kìm hãm trong cơ chế pháp luật và nhu cầu thị trường công nghệ thấp. Điều quan trọng nhất các quốc gia này cần làm để cải thiện vị thế là giải quyết những lỗ hổng và tăng cường tiếp cận với các thành quả công nghệ đã có trên thế giới. Thuộc nhóm này là Peru, Ai Cập, Hy Lạp, Pakistan
Cũng cần lѭu ý là thứ hạng các nѭớc cũng thay đổi hàng năm và có những nѭớc có thể nằm ở ranh giới giữa các mô hình trên.
Việt Nam nằm trong nhóm bứt phá, là quốc gia hiện có điểm số về mức độ trung bình, nhưng đang phát triển nhanh chóng và được đánh giá là có cơ hội lớn để trở nên nổi bật trong tương lai. Từ những mô hình chuyển đổi số quốc gia, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Chuyển đổi số cần được tiến hành hệ thống trên các trục chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, tính đến khía cạnh đảm bảo pháp lý, lợi ích của các bên: doanh nghiệp - nhà nước - xã hội, tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu hạn chế, rủi ro. Nhà nѭớc cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới, đặc biệt là các công cụ ưu đãi thuế, chính sách tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhӓ, cho các doanh nghiệp tư nhân; nâng cao chi phát triển công nghệ, liên kết giữa khoa học và sản xuất trong khuôn khổ hợp tác công tư; thúc đẩy chuyển đổi số trong công nghiệp, tài chính, thương mại, ứng dụng sản xuất thông minh; y tế, giáo dục; đảm bảo hệ thống hạ tầng ổn định và an toàn; các điều kiện thu hút các nguồn lực trí thức; giảm tình trạng mất cân bằng số giữa các khu vực; đảm bảo mức độ đào tạo năng lực số cần thiết cho công chức và người dân.
4. Chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam
Chuyển đổi số quốc gia là quá trình phát triển tất yếu trên toàn cầu và Việt Nam cũng không thể nằm ngoài lộ trình ấy. Chuyển đổi số được Đảng ta xác định là cơ hội bứt phá để nước ta nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển, là phương thức đột phá để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, coi đó là một trong những trụ cột quan trọng, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Tận dụng lợi thế của một quốc gia đi sau trên con đường phát triển, Việt Nam cần phải tận dụng những lợi thế của chuyển đổi số để hiện đại hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, tăng khả năng cạnh tranh, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nắm bắt xu thế này, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52/NQ-TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết đã nhận thức rõ về ưu thế
Thêm nữa, 5 quốc gia xếp trên Việt Nam là Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei, Philippines và quốc gia ngay sau Việt Nam đều đã tuyên bố chiến lược phát triển chính phủ số. Điều này cũng cho thấy, khó có sự dừng lại của các nước khác trong tiến trình này. của Cách mạng công nghiệp lần thứ tѭ và đổi mới mô hình tăng trưởng trên cơ sở, nền tảng chuyển đổi số khi khẳng định: Tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế , phát triển mạnh mẽ kinh tế số, phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao để đến năm 2025, kinh tế số chiếm 20% GDP và đến năm 2030 là 30% GDP.
Trong Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những khái niệm như: Chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số đã lần đầu tiên được đề cập. Nội hàm của những khái niệm này cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm phát triển và các đột phá chiến lược. Văn kiện đã chỉ rõ: Phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành xây dựng chính phủ số, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP và đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về Chính phủ số và kinh tế số. Từ đó, Đảng ta cũng đã chỉ ra định hướng mang tính chiến lѭợc: Chú trọng phát triển hạ tầng viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số và xã hội số.
Hiện thực hóa những chủ trѭơng trên, Thủ tѭớng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020. Chương trình chuyển đổi số của Việt Nam còn được gọi là Chương trình thông minh hóa quốc gia với ba trụ cột chính: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Theo đó, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu kpp là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với các chỉ số cụ thể.
Chương trình đề ra mục tiêu đến năm 2025 phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động với 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước). 100% chế độ báo cáo, chỉ tiêu tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo thống kê về kinh tế - xã hội phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ được kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ. 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, tài chính, bảo hiểm được hoàn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; từng bѭớc mở dữ liệu của các cơ quan nhà nѭớc để cung cấp dịch vụ công kịp thời, một lần khai báo, trọn vòng đời phục vụ ngѭời dân và phát triển kinh tế - xã hội; 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nѭớc đѭợc thực hiện qua môi trѭờng số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý. Phấn đấu Việt Nam sӁ gia nhập nhóm 70 nѭớc dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
Về phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI), thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI), thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
Về phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, mục tiêu đến năm 2025 là hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; phấn đấu Việt Nam thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Theo Chѭơng trình, đến năm 2030, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đѭợc cung cấp 100% trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động. 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã sẽ được xử lý trên môi trѭờng mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nѭớc); hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ ngѭời dân, doanh nghiệp; 70% họat động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.
Ngoài ra, Việt Nam đặt mục tiêu gia nhập nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Về phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử là trên 80%. Việt Nam sẽ thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Quyết định nêu rõ nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số là chuyển đổi nhận thức; kiến tạo thể chế; phát triển hạ tầng số; phát triển nền tảng số; tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số.
Nhiệm vụ, giải pháp phát triển Chính phủ số là:
- Phát triển hạ tầng Chính phủ số phục vụ cơ quan nhà nѭớc trên cơ sở kết hợp thế mạnh của Mạng Truyền số liệu chuyên dùng, mạng Internet, trung tâm dữ liệu của cơ quan nhà nước để phục vụ kết nối liên thông, xuyên suốt 4 cấp hành chính, sử dụng cơ chế mã hóa và công nghệ bảo đảm an toàn, an ninh mạng do Việt Nam làm chủ một cách an toàn, bảo mật. Tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các Bộ, ngành, địa phương, chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng công nghệ điện toán đám may phục vụ kết nối, quản lý các nguồn lực, dữ liệu của cơ quan nhà nѭớc một cách an toàn, linh hoạt, ổn định và hiệu quả.
- Đẩy mạnh triển khai các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển Chính phủ điện tử; xây dựng Cổng dữ liệu quốc gia (data.gov.vn), tích hợp với thàh phần dữ liệu mở của hệ tri thức Việt số hóa, cung cấp dữ liệu mở,cung cấp hiện trạng và lộ trình xây dựng dữ liệu trong các cơ quan nhà nước, mức độ chia sẻ và sử dụng dữ liệu và các thông tin cần thiết để kết nối; phát triển, hoàn thiện Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ kết nối với hệ thống thông tin báo cáo của các Bộ, cơ quan, địa phương; áp dụng công nghệ mới nhất về truyền thông xã hội (Social), cung cấp thông tin, dịch vụ hành chính công một các đơn giản, thuận tiện trên di động (Mobile), phân tích dữ liệu (Big Data Analytics), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR) để thực hiện chuyển đổi số toàn diện các mặt công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước và cung cấp trải nghiệm tốt nhất, thân thiện nhất cho người dùng;
- Phát triển, hoàn thiện hệ thống Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử của các Bộ, ngành, địa phương để cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; đưa toàn bộ các dịch vụ công trực tuyến lên mức độ 3, 4; Đồng thời, chuẩn hóa, điện tử hóa quy trình nghiệp vụ xử lý hồ sơ trên môi trѭờng mạng, biểu mẫu, chế độ báo cáo; tăng cường gửi, nhận văn bản, báo cáo điện tử tích hợp chữ ký số giữa các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các doanh nghiệp; thực hiện số hóa hồ sơ, lưu trữ hồ sơ công việc điện tử của các cơ quan nhà nước theo quy định; thử nghiệm triển khai hiệu quả một số dịch vụ trên nền tảng đô thị thông minh, thửu nghiệm Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh;
- Lựa chọn đô thị điển hình của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng để triển khai thử nghiệm, gắn liền phát triển dịch vụ đô thị thông minh với hệ thống chính quyền điện tử, phát triển bền vững theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Xác định mô hình triển khai thành công để phổ biến, nhân rộng; xây dựng chương trình nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước
Chѭơng trình Chuyển đổi số quốc gia đã đѭợc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tầm nhìn 10 năm sẽ thay đổi toàn diện đất nước, đặt ra các mục tiêu: Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng góp 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; mọi người dân có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thông minh, không ai bị bỏ lại phía sau. Để đạt được mục tiêu đó, cần có quyết tâm và đột phá với cách làm mới, phù hợp với bối cảnh và thực tiễn.
Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hѭớng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ) cùng với Chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số là nền tảng pháp lý quan trọng trong việc triển khai Chương trình Chuyển đổi số quốc gia. Những nhiệm vụ đề ra cho thấy Chính phủ đã xác định được những lĩnh vực cần ưu tiên và đã thấy được những thách thức chung về nhận thức, thể chế, chính sách, về hạ tầng và nền tảng số, về nguồn nhân lực và kỹ năng số, để đề ra những biện pháp, giải pháp thực hiện cụ thể.
II. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Khái niệm và trách nhiệm trong quản lý chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số là nhiệm vụ cần sự vào cuộc quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ cấp Trung ѭơng đến địa phương. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương phải coi chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, điều hành. Trong đó, vai trò của ngѭời đứng đầu chính quyền địa phѭơng, đơn vị, các ngành trong quản lý chuyển đổi số quốc gia là cực kỳ quan trọng.
Quản lý chuyển đổi số quốc gia là hoạt động có định hѭớng, có tổ chức và có kế hoạch nhằm chỉ đạo, triển khai thực hiện chiến lược và chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Về trách nhiệm trong quản lý chuyển đổi số quốc gia, tổ chức, bộ máy quản lý nhà nѭớc phát triển chính phủ số cần được kiện toàn, đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Uỷ ban Quốc gia về Chính phủ số được mở rộng chức năng, nhiệm vụ để chỉ đạo thêm nội dung về chuyển đổi số, kinh tế số và đô thị thông minh; Ban Chỉ đạo Chính phủ điện tử, Ban Chỉ đạo xây dựng Chính phủ/Chính quyền điện tử, chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phѭơng đѭợc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ tѭơng ứng.
Bộ trѭởng, Thủ trѭởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ѭơng trực tiếp chỉ đạo, chịu trách nhiệm trѭớc Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ về kết quả phát triển chính phủ số, chính quyền số tại bộ, ngành, địa phѭơng mình.
Bộ Thông tin và Truyền thông, đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng có trách nhiệm trong việc tổ chức, điều phối công tác phát triển chính phủ số các cấp.
Các cơ quan, đơn vị, công chức các bộ, ngành, địa phѭơng trong phạm vi trách nhiệm thẩm quyền, phối hợp với các đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin tham mѭu, tổ chức triển khai mạnh mӁ chuyển đổi số tại các bộ, ngành, lĩnh vực, địa phѭơng.
Ngѭời đứng đầu chính quyền các cấp, các ngành chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn phụ trách; tiên phong, đi đầu trong việc chuyển đổi số để nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của địa phѭơng, đơn vị; lấy việc triển khai thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số là một trong những tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của ngѭời đứng đầu các cơ quan, chính quyền các cấp.
Với chính phủ điện tử, chính phủ số cần phải tăng cѭờng hợp tác giữa các cơ quan nhà nѭớc, đặc biệt trong việc cải tiến các dịch vụ công và tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia. Các kênh giao tiếp và cơ quan phối hợp chính thống cần đѭợc thiết lập ở mọi cấp chính quyền.
Các phѭơng tiện truyền thông cần đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích công dân và doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố hỗ trợ Chính phủ đѭa ra các sáng kiến về chính phủ điện tử, đặc biệt là các sáng kiến trong cung cấp dịch vụ công, cũng nhѭ đѭa ra các phản hồi để chính phủ cải thiện hoạt động.
2. Thách thức đối với quản lý chuyển đổi số quốc gia
Để chuyển đổi số ở Việt Nam thành công, chúng ta không chỉ nhìn thấy thời cơ, lợi thế, không chỉ đề ra các chủ trѭơng, chính sách, đề án, chѭơng
trình, chuyển đổi số, mặc dù đó là yếu tố quan trọng, mà vấn đề quan trọng hơn là cần phải đánh giá đúng các thách thức và tìm ra cách thức, giải pháp hữu hiệu để vѭợt qua những thách thức đó.
Việt Nam cần nhận thức rõ các thách thức và những vấn đề đặt ra để cải thiện tình hình. Những thách thức cơ bản đó là:
- Thứ nhất là về nhận thức, tѭ duy và tầm nhìn. Nhận thức về chuyển đổi số nhѭ là tiến trình mang tính tất yếu, về chiến lѭợc tiếp cận ở cả cấp độ quản lý nhà nѭớc đến cấp độ doanh nghiệp và của ngѭời dân còn chѭa cao.
Xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số đòi hӓi tất cả lãnh đạo, công chức trong các cơ quan nhà nѭớc phải nhận thức đúng và hiểu đѭợc tầm quan trọng của chính phủ điện tử và chính phủ số. Cần nâng cao khả năng lãnh đạo chuyển đổi số đến từng cá nhân.
Không chỉ từng cá nhân mà cho tới các tổ chức, cơ quan chѭa hiểu hết ý nghĩa việc chia sẻ thông tin, dữ liệu - cho dù đó chỉ là những dữ liệu có thể dùng chung. Ngѭời dân cho tới nay vẫn còn phải bổ sung thông tin cá nhân, những sự chỉnh sửa, cập nhật theo kiểu thủ công trên mỗi ứng dụng và tại mỗi cơ quan, tổ chức. Nếu nhѭ có đѭợc cơ sở dữ liệu dùng chung mà toàn hệ thống đều cùng sử dụng, chuyển đổi số ắt làm ngѭời dân hài lòng hơn.
Đối với cơ quan nhà nѭớc, Chính phủ số xử lý văn bản không giấy, họp không gặp mặt, xử lý thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt. Sự thay đổi chỉ có thể bắt đầu từ ngѭời đứng đầu. Thách thức lớn nhất cho cơ quan nhà nѭớc là nhận thức và sự vào cuộc thực sự của ngѭời đứng đầu, là chuyện dám làm hay không dám làm.
- Thứ hai là về thể chế pháp lý. Sự thay đổi đòi hӓi phải triển khai các giải pháp công nghệ số, có những việc hoàn toàn mới, chѭa có tiền lệ. Thách thức không nhӓ là môi trѭờng pháp lý để triển khai. Đây là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy hoặc có thể kìm hãm sự phát triển chính phủ số. Chính phủ điện tử là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phѭơng diện kinh tế, kỹ thuật mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hóa xã hội cũng phải được xem xpt. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng chính phủ điện tử thành công.
Thể chế pháp lý về quy trình, thủ tục, nghiệp vụ hành chính cũng cần đѭợc thay đổi. Chính phủ điện tử không đơn thuần chỉ là ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông. Khi triển khai chính phủ điện tử, điều quan trọng là phải đảm bảo thủ tục hành chính và quy trình quản lý đѭợc xem xpt lại và đơn giản hóa. Các cơ quan quản lý cần nghĩ đến các quy trình công việc hơn là các chức năng công việc của mỗi cơ quan và cá nhân, chú trọng hơn tới ngѭời dân và doanh nghiệp cũng nhѭ sự hợp tác giữa các cơ quan.
- Thứ ba là về hạ tầng số. Để xây dựng chính phủ số và chuyển đổi số thành công, cần xây dựng hạ tầng số với cơ sở dữ liệu quốc gia, bao gồm hạ tầng thiết bị, truyền thông, hạ tầng dữ liệu, ứng dụng và hạ tầng nghiên cứu phát triển. Trong đó, quan trọng nhất là kết nối cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phѭơng với một hạ tầng kết nối băng rộng, sử dụng công nghệ tiên tiến và những ứng dụng dùng chung nhằm đảm bảo được sự kết nối liên thông.
- Thứ tư là nguồn nhân lực. Sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực tương lai nói chung và nhân lực trong khu vực công nói riêng. Cán bộ, công chức, viên chức là những nhân vật trung tâm của chính quyền số. Trên thực tế còn một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có những hạn chế trong tѭ duy, trong hành động quản lý cũng như về khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, thói quen sử dụng văn bản giấy tờ, thói quen cát cứ dữ liệu, không chia sẻ thông tin... chưa được khắc phục.
- Thứ năm là an toàn, an ninh mạng. Khi đã có một hệ thống đáp ứng đѭợc yêu cầu của chuyển đổi số, phục vụ cho chính phủ số, việc bảo vệ hệ thống đó tránh các cuộc xâm nhập và phá hoại bên trong và ngoài nѭớc là vô cùng quan trọng bởi hầu hết các máy tính đều có khả năng kết nối toàn cầu. Chỉ khi bảo vệ đѭợc an toàn hệ thống thì mới triển khai đѭợc chính phủ số bền vững. Cũng nhѭ một số quốc gia, Việt Nam hiện gặp phải những thách thức về an toàn thông tin do số ngѭời sử dụng lớn, trình độ đa dạng; thiết bị đầu cuối khác nhau; khó khăn trong kiểm soát bảo mật; phần mềm ứng dụng đa dạng, khả năng duy trì và nâng cấp hạn chế.
- Thứ sáu là nguồn lực tài chính. Nhà nѭớc cần điều chỉnh cơ chế đầu tѭ đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cѭờng xã hội hóa, huy động các nguồn lực phù hợp với các kế hoạch, mức ѭu tiên, bao gồm cả hình thức đối tác công - tư để phát triển chính phủ số.
Để bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, phát triển hạ tầng số, nền tảng số, thực hiện chuyển đổi số, bên cạnh việc có hành lang pháp lý, lộ trình, cơ chế; đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ công nghệ thông tin phù hợp thì phải có đủ nguồn lực tài chính mới có thể phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số. Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện nay mức chi đầu tѭ cho chuyển đổi số tại Việt Nam còn thấp, chỉ chiếm từ 0,3-0,5% GDP. Trong khi mức đầu tѭ trung bình trên thế giới phải gấp ít nhất 3 lần nhѭ thế.
- Thách thức cuối cùng là năng lực xã hội tức là năng lực số của ngѭời dân. Sự phát triển nhanh chóng của chính phủ điện tử đòi hӓi trình độ dân trí cần đѭợc cải thiện với mức độ tѭơng ứng. Tỷ lệ doanh nghiệp, ngѭời dân hiểu biết, sử dụng công nghệ thông tin, truyền thông còn thấp. Bên cạnh một bộ phận ngѭời dân chѭa quen với công nghệ, chѭa tiếp cận với dịch vụ công trực tuyến thì vẫn còn không ít doanh nghiệp, ngѭời dân có tâm lý muốn giải quyết công việc bằng cách nhờ vả quan hệ thân hữu hoặc bôi trơn cho nhanh đѭợc việc. Đối với mỗi ngѭời dân, sự thay đổi đòi hӓi thay đổi kỹ năng và thói quen. Thách thức lớn nhất cho xã hội trѭớc mắt là kỹ năng số của ngѭời dân, sau đó là thói quen và văn hóa sống trong môi trѭờng số.
3. Yêu cầu đối với quản lý chuyển đổi số quốc gia
Quản lý chuyển đổi số quốc gia cần dựa trên các yêu cầu:
- Phải lấy ngѭời dân làm trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực cho chuyển đổi số. Mọi chính sách đều hѭớng về ngѭời dân, doanh nghiệp; và ngѭời dân, doanh nghiệp cần tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
- Phải có tѭ duy đột phá, tầm nhìn chiến lѭợc, có cách làm phù hợp, nhất là bám sát thực tiễn để xây dựng chѭơng trình, kế hoạch chuyển đổi số. Làm việc có trọng tâm, trọng điểm, nguồn lực ít nhѭng phải có hiệu quả lớn, sức lan tӓa rộng, mang lại lợi ích cho nhiều ngѭời, nhiều doanh nghiệp.
Chuyển đổi số là một thứ phải đo ni đóng giày cho từng tổ chức, địa phương. Không hề có khuôn mẫu chung cho tất cả, nhưng sẽ tốt cho tất cả nếu như các tổ chức có năng lực và kinh nghiệm đứng ra dẫn dắt công cuộc chuyển đổi số xây dựng đѭợc những cái khung đa dạng rồi có thể hiệu chỉnh cho từng đối tѭợng. Mỗi ngành, lĩnh vực cần phải đѭợc các nhà chuyên môn khảo sát, tѭ vấn tìm ra giải pháp riêng cho mình. Trên tất cả là phải có sự điều hành chung thống nhất từ cấp Chính phủ, vừa bảo đảm sự hợp nhất, đồng bộ, vừa tránh tình trạng nơi làm, nơi không.
- Phải có đầu tѭ thích đáng cho hoàn thiện thể chế, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, quản trị trên cơ sở khoa học, hợp lý, hiệu quả
Để chuyển đổi số thành công, quản lý chuyển đổi số quốc gia cần tập trung thực hiện một số biện pháp cơ bản như:
- Ban hành và thực thi chính sách chuyển đổi số. Tạo hành lang pháp lý, thể chế đồng bộ cho quá trình chuyển đổi số, quản lý pháp luật số nhằm có một môi trường số lành mạnh.
- Xây dựng tài nguyên số, dữ liệu số để vận hành các dịch vụ số.
- Phát triển đồng bộ hạ tầng số, công cụ sản xuất số, công cụ quản lý số làm nền tảng cho các dịch vụ số hoạt động.
- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông, chủ thể trực tiếp của tiến trình chuyển đổi số.
- Quản lý được các nguy cơ và rủi ro trên không gian mạng.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA
1. Xây dựng chiến lƣợc và thể chế chuyển đổi số
Chiến lược phát triển chính phủ số đѭợc xây dựng dựa trên hiện trạng chính phủ điện tử, xu thế phát triền chính phủ số của thế giới, chiến lược phát triền kinh tế - xã hội. Nội dung chiến lѭợc phát triển chính phủ số phải xác định được tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp phát triền chính phủ số trong dài hạn, thường là các giai đoạn 05 năm; phải thể hiện được sự khác biệt giữa phát triển chính phủ số và chính phủ điện tử. Chiến lược phát triển chính phủ số là kim chỉ nam để xây dựng các kế hoạch hành động phát triền chính phủ số. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chѭơng trình hay chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia, đѭa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại và bứt phá vѭơn lên, thay đổi thứ hạng. Chính phủ Việt Nam cũng đang từng bѭớc áp dụng vào công tác quản lý và xây dựng chính phủ điện tử với các chính sách - pháp luật đang được sửa đổi nhằm có hệ thống pháp lý phù hợp với xu hѭớng hiện nay. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam còn khuyến khích các ngành/nghề, doanh nghiệp áp dụng chuyển đổi số trong tất cả lĩnh vực, như: Chuyển đổi số doanh nghiệp, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng, chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục, trong công tác truyền thông Tuy vậy, Chính phủ cũng cần phải hoạch định lại các chiến lược chuyển đổi số quốc gia cho phù hợp và nhất quán nhằm định hѭớng phát triển kinh tế - xã hội số. Trên cơ sở đó, xây dựng các chiến lѭợc chuyển đổi số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp đảm bảo quá trình công nghiệp hóa, chuyển đổi hóa và tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó các cơ quan nhà nước - doanh nghiệp - trường đại học, viện nghiên cứu giữ vai trò nòng cốt.
Trong chuyển đổi số, thể chế cần đi trѭớc một bѭớc và đѭợc điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chính vì vậy, chuyển đổi số đѭợc xem không phải là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế.
Trong thời gian tới nhiều vấn đề chѭa đѭợc điều chỉnh để tạo cơ sở pháp lý cho phát triển chính phủ số dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ hiện đại (như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, giao diện lập trình ứng dụng mở...) nhѭ: quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu, về định danh và xác thực điện tử; quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân; quy định về văn bản điện tử; lѭu trữ tài liệu điện tử của các cơ quan nhà nước; giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh toán; về dịch vụ công số và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường số, bảo vệ quyền con người, bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2. Xây dựng kế hoạch và lộ trình chuyển đổi số
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chuyển đổi số quốc gia, mỗi cơ quan, tổ chức nhà nѭớc cẩn xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động phát triển chính phủ số, chính quyền số với những hành động triển khai cụ thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
Kế hoạch hành động phát triển chính phủ số là việc cụ thể hoá chiến lѭợc phát triền chính phủ số thành các nhiệm vụ, dự án, trong đó xác định rõ trách nhiệm, thời gian, nguồn lực triển khai, các giải pháp tạo đột phá. Kế hoạch hành động phát triền chính phủ số được xây dựng và triển khai đổng bộ với các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Căn cứ tình hình cụ thể, từng bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp quyết định xây dựng đề án, chương trình, chiến lược, kế hoạch lồng ghpp nội dung về chuyển đổi số trong hoạt động của mình. Nội dung chuyển đổi số quốc gia phải được chỉ đạo, giám sát, đánh giá định kỳ hằng năm, giữa nhiệm kỳ và mỗi 5 năm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với nghị quyết, chiến lѭợc, chѭơng trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành.
Về lộ trình thực hiện, việc phân biệt ra các mức độ phát triển, là chính phủ điện tử và chính phủ số, không có nghĩa là làm tuần tự, làm xong chính phủ điện tử rồi mới làm chính phủ số. Công cuộc chuyển đổi số ở Việt Nam thực tế vẫn chỉ mới ở giai đoạn đầu. Chuyển đổi số muốn hiệu quả thiết thực với cuộc sống thì phải tiến hành toàn diện, đồng bộ, nhưng không nhất thiết phải tuần tự, không có nghĩa là đợi chuẩn bị đủ mới làm một lѭợt, bởi vì các nguồn dữ liệu quốc gia sớm tạo ra cho phpp ta từng bѭớc xây dựng chính phủ số trong khi hoàn thiện chính phủ điện tử. Cần bắt đầu ngay, làm từng cái một, từ những chuyện bị coi là nhӓ nhặt nhѭng đem lại lợi ích cho ngѭời dân. Cũng có thể chọn cách tiếp cận mang tính đột phá, đó là cái gì mà cơ quan, bộ, ngành, địa phương thấy khó nhất, hay gọi là nỗi đau lớn nhất, hoặc vấn đề gì đang nóng nhất, ngѭời dân đang bức xúc nhất thì mang ra để xem xpt giải quyết bằng công nghệ số. Có một cách tiếp cận nữa cũng rất hiệu quả là, để cho ngѭời dân, doanh nghiệp đề xuất với cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng những việc, những giá trị mà họ có thể tạo ra, hỗ trợ. Cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng xem xpt nếu thấy giá trị tạo ra cho lớn hơn chi phí thì cho làm. Đây là cách đѭa toàn dân vào tham gia đổi mới sáng tạo cho cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng. Không nên coi các ý tѭởng phát triển cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng là độc quyền của công chức nhà nѭớc. Thѭờng thì những đột phá, những giá trị lớn bất ngờ là xuất phát từ sáng tạo của trí tuệ nhân dân.
Chuyển đổi số là một quá trình lâu dài với tốc độ và quy mô khác nhau ở các quốc gia, ở các lĩnh vực khác nhau. Những bài học thành công và thất bại của chuyển đổi số chỉ ra rằng: cần có tầm nhìn xa và tổng thể, có lộ trình rõ và thực hiện theo từng bѭớc, thậm chí theo từng bѭớc nhӓ. Các bѭớc đi của chuyển đổi số cho một tổ chức gồm: (1) Nhận thức và tư duy mới, (2) Đặt ra chiến lược và lộ trình, (3) Xây dựng năng lực số (năng lực, hạ tầng, văn hóa), (4) Xác định công nghệ chính, (5) Thay đổi mô hình hoạt động và cuối cùng là (6) Chuyển đổi quy trình: từ nhӓ đến lớn. Sáu bѭớc này đѭợc xếp thành một vòng tròn nhắc nhở rằng, có những bước sẽ phải làm đi làm lại và làm liên tục trong khi vẫn phải tiến lên những bước tiếp theo.
Về quy trình các bѭớc trên, Tài liệu này thống nhất theo quan điểm của Hồ Tú Bảo, Tony Saldahna trong
Chuyển đổi số không phải là trào lưu. Báo Khoa học và Phát triển. https://khoahocphattrien.vn/ ngày 25/01/2022.
Các bước để thực hiện chuyển đổi số.
3. Đảm bảo các nguồn lực cho chuyển đổi số
a) Xây dựng nguồn nhân lực cho chính phủ số và phát triển năng lực lãnh đạo, quản lý số
- Đào tạo, nâng cao nhận thức cho cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nước các cấp về phát triển chính phủ số;
- Tổ chức đào tạo đội ngũ chuyên gia về chính phủ số tạo lực lѭợng nòng cốt, lan tӓa kiến thức, kỹ năng cho phát triển chính phủ số tại các bộ, ngành, địa phѭơng. Các chuyên gia chính phủ số trѭớc hết phải nắm bắt đѭợc các xu thế công nghệ mới, các bài học kinh nghiệm, quy định pháp luật, mô hình, quy định kỹ thuật trong triển khai chính phủ số. Xây dựng mạng lѭới chuyên gia về chính phủ số để học tập, chia sẻ tri thức, phối hợp giải quyết các vấn đề lớn;
- Tổ chức đào tạo, bồi dѭỡng kỹ năng số, kỹ năng phân tích và xử lý dữ liệu cho cán bộ, công chức, viên chức hằng năm để sẵn sàng chuyển đổi môi trѭờng làm việc sang môi trѭờng số. Xây dựng khung đánh giá kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức;
- Đѭa nội dung đào tạo về chính phủ số vào chѭơng trình đào tạo của các trѭờng, cơ sở đào tạo cán bộ, công chức, viên chức, các trѭờng đào tạo chuyên ngành về công nghệ thông tin và truyền thông;
- Thu hút lực lѭợng chuyên gia cao cấp trong và ngoài nѭớc có kinh nghiệm triển khai tham gia đào tạo trong các chѭơng trình đào tạo; xây dựng mạng lѭới chuyên gia về chính phủ số;
- Tổ chức đào tạo, bồi dѭỡng kỹ năng số, phѭơng pháp giảng dạy cho đội ngũ giáo viên các cấp học để nâng cao năng lực giảng dạy về công nghệ số;
- Xây dựng hệ thống thao trѭờng mạng và thѭờng xuyên tổ chức huấn luyện, diễn tập đảm bảo an toàn, an ninh mạng cho chính phủ số.
Đối với công nghệ thông tin, vì phải triển khai, vận hành hệ thống công nghệ thông tin, phải đào tạo ngѭời dùng. Những việc này lại phải làm ở từng cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng nên rất thiếu cán bộ công nghệ thông tin. Với công nghệ số thì không có các bài toán này. Tất cả là trên điện toán đám mây, chỉ cần đăng ký vào để dùng một hệ thống dùng chung. Vấn đề quan trọng là nâng cao năng lực quản lý số, lãnh đạo số cho cán bộ, công chức để có khả năng đặt ra mục tiêu cần đạt đѭợc, lѭợng hoá giá trị cần tạo ra để biết chi phí tối đa có thể chi.
Nhà lãnh đạo, quản lý chuyển đổi số là ngѭời đứng đầu, các công chức tham mѭu chiến lѭợc cho tổ chức, có tầm nhìn, thiết lập đѭợc sứ mệnh cho tổ chức, có niềm tin là công nghệ số, chuyển đổi số giúp giải quyết những vấn đề nhức nhối của tổ chức mình, và kiên định với mục tiêu đặt ra. Nhà lãnh đạo chuyển đổi số không nhất thiết và không cần phải hiểu về công nghệ số. Điều quan trọng nhất đối với nhà lãnh đạo là biết đặt ra bài toán299.
Những năng lực lãnh đạo truyền thống nhѭ tự tin, biết ứng xử, chuyên nghiệp, ra quyết định hiệu quả đòi hӓi ở mức độ cao hơn và phức tạp hơn trong bối cảnh chuyển đổi số trong khu vực công. Ngoài những năng lực chung và năng lực chuyên môn còn cần xây dựng và nâng cao năng lực của ngѭời lãnh đạo, quản lý thực hiện cải cách số, chuyển đổi số sau:
- Có tầm nhìn và tѭ duy chiến lѭợc. Lãnh đạo chuyển đổi số đѭợc xem là ngѭời có tầm nhìn, tạo dựng bức tranh tổng thể về chiến lѭợc phát triển của tổ chức, xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ, kiến tạo thể chế, xác định cách tiếp cận để thiết lập và hình thành lô gích của hành động, đánh giá và xác định đúng về sự tác động qua lại và lợi ích của các bên liên quan tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
- Năng lực thực hiện đổi mới sáng tạo, linh hoạt với sự thay đổi, khả năng thích ứng nhanh. Lãnh đạo trong kỷ nguyên số để đạt đѭợc thành công cần sẵn sàng thay đổi tѭ duy và dẫn dắt sự thay đổi, áp dụng cách tiếp cận mới, chủ động tìm kiếm các sáng kiến chuyển đối số, đặc biệt là trong vấn đề hoạch định chiến lѭợc, chính sách chuyển đổi số tối ѭu nhất và ra quyết định quản lý liên quan đến thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy, cải tiến, tái cấu trúc các quy trình nghiệp vụ và tạo ra những sản phẩm dịch vụ số mới trong hệ thống quản lý nhà nѭớc.
- Năng lực quản lý nhân sự phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số. Đó là mở rộng quyền và tạo sự tự do, sáng tạo cho nhân viên để họ mạnh dạn đề xuất và thực hiện các thử nghiệm mới. Thay đổi văn hóa tổ chức, đề cao tính cá nhân, hѭớng nhân viên tới kết quả công việc, tạo động lực, trách nhiệm, cảm hứng, gây ảnh hѭởng tốt với nhân viên, biết phát huy tiềm năng, năng lực của nhân viên, biết hợp tác thực hiện cơ chế phản hồi, biết phát triển nhân viên, phát triển nhóm, chú trọng và sử dụng các phѭơng pháp linh hoạt trong đào tạo, nâng cao trình độ và phát triển năng lực cho nhân viên và nhóm.
- Bản thân ngѭời lãnh đạo, quản lý phải trở thành là tấm gѭơng đi tiên phong, mạnh mӁ trong việc khai thác những ѭu thế và tích cực trong thực hiện chiến lѭợc chuyển đổi số trong tổ chức, biết phân tích và sử dụng dữ liệu theo cách tối ѭu nhất. Lãnh đạo số phải biết chịu trách nhiệm về kết quả chuyển đổi số, biết đánh giá, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, rút kinh nghiệm từ những thất bại của cải cách số, xác định điều kiện đảm bảo để biến thất bại thành là động lực hѭớng tới thành công.
b) Xây dựng hạ tầng số và các nền tảng số
Hạ tầng số đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế số, xã hội số. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hạ tầng viễn thông sӁ chuyển dịch thành hạ tầng số bao gồm hạ tầng viễn thông và điện toán đám mây. Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ di động 5G, làm chủ hạ tầng điện đám mây (cloud) thông qua các nền tảng Make in Viet Nam. Bên cạnh phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, việc làm chủ hạ tầng số, làm chủ dữ liệu của ngѭời Việt là nhiệm vụ chiến lѭợc, cần đѭợc ѭu tiên hàng đầu.
Ngành Thông tin và Truyền thông cũng định hѭớng hạ tầng bѭu chính chuyển đổi từ chuyển phát thѭ báo thành hạ tầng của dòng chảy vật chất phục vụ cho nền kinh tế số. Bên cạnh dòng chảy dữ liệu, hạ tầng bѭu chính sӁ trở thành một huyết mạch của thѭơng mại điện tử. Bѭu chính đѭợc giao trọng trách phục vụ phát triển chính phủ số, cải cách hành chính, góp phần đѭa dịch vụ công lên mức độ 3, 4; đồng thời bảo đảm an toàn tuyệt đối dịch vụ bѭu chính phục vụ cơ quan Đảng và Nhà nѭớc từ Trung ѭơng tới địa phѭơng.
Phát triển nền tảng số là giải pháp đột phá để thúc đẩy chính phủ số, chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nhanh hơn ở chỗ các nền tảng đã sẵn sàng đѭa vào sử dụng, dùng chung. Giảm chi phí ở chỗ không cần đầu tѭ kinh phí và thời gian phát triển mới từng phần mềm. Dịch vụ đѭợc cung cấp qua các nền tảng số sӁ ngày càng rẻ nhѭ hoá đơn điện nѭớc nếu có lѭợng ngѭời dùng lớn. Và vì vậy, chuyển đổi số dựa trên các nền tảng số sӁ trở nên hiệu quả.
Ngành Thông tin và Truyền thông định hѭớng phát triển hệ sinh thái các nền tảng số đáp ứng nhu cầu của ngѭời dân Việt Nam và từ đó đi ra thế giới. Mở rộng không gian mạng quốc gia thông qua mở rộng phạm vi hoạt động của các nền tảng số Make in Viet Nam. Việt Nam cần nhiều hơn nữa các nền tảng số Make in Viet Nam có khả năng đi ra toàn cầu để chiếm lĩnh những không gian mới.
c) Xây dựng không gian mạng quốc gia hѭớng tới phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, nhân văn và rộng khắp
Nếu coi chuyển đổi số là một vũ khí sắc bpn để mở rộng không gian mạng quốc gia, thì an toàn, an ninh mạng sẼ là chiếc khiên vững chắc bảo vệ thành quả của chuyển đổi số. An toàn, an ninh mạng phải song hành và trở thành một phần không thể tách rời của chuyển đổi số.
Phát triển hạ tầng số an toàn (SAFE), tin cậy (TRUST), tạo niềm tin số cho xã hội khi tham gia vào các hoạt động trên không gian mạng, từ đó thúc đẩy
kinh tế số, xã hội số phát triển. Mỗi ngѭời dân sở hữu một danh tính số và đѭợc xác thực khi tham gia vào các dịch vụ trực tuyến để bảo đảm an toàn và nâng cao mức độ tin cậy của các dịch vụ. Phổ cập định danh và xác thực điện tử sӁ góp phần tạo ra một không gian mạng quốc gia an toàn, văn minh và rộng khắp.
d) Đảm bảo nguồn kinh phí tài chính cho chuyển đổi số
Khi thực hiện chuyển đổi số thì phải tính đѭợc giá trị do chuyển đổi số mang lại, thí dụ tiết kiệm lao động, giờ lao động, tiết kiệm chi phí thѭờng xuyên, giá trị mới do chuyển đổi số mang lại. Những giá trị vô hình, dài hạn thì vẫn phải tìm cách lѭợng hoá. Giá trị tạo ra mà lớn hơn chi phí chuyển đổi số thì tức là hiệu quả. Chuyển đổi số không phải là một chi phi tăng thêm mà phải là một giá trị tăng thêm. Để tránh các tai nạn đã từng xảy ra trѭớc đây với CNTT thì tỉnh luôn phải coi chi cho chuyển đổi số nhѭ một dự án đầu tѭ hiệu quả.
Mỗi cơ quan, tổ chức căn cứ vào chiến lѭợc chuyển đổi số của mình để có mức chi phù hợp. Đối với các cơ quan nhà nѭớc cấp bộ, cấp tỉnh, tỷ lệ chi cho chuyển đổi số nên ở mức 1% tổng chi ngân sách nhà nѭớc hàng năm. Nếu muốn đẩy nhanh, nhất là những năm đầu cần làm ngay các nền tảng, thì có thể chi 2%. Mỗi tổ chức, doanh nghiệp cần dành ít nhất 10% mức chi cho chuyển đổi số để chi cho các hoạt động bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế thì vấn đề đặt ra với Chính phủ là:
- Ưu tiên sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nѭớc và huy động các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật để phát triển chính phủ số; tăng cѭờng thực hiện giải pháp thuê dịch vụ công nghệ thông tin;
- Xây dựng chѭơng trình đầu tѭ công để thực hiện các dự án phát triển hạ tầng, trung tâm dữ liệu, cơ sở dữ liệu quốc gia, nền tảng quốc gia, các ứng dụng, dịch vụ quốc gia sử dụng vốn đầu tѭ công do ngân sách trung ѭơng đảm bảo.
Hiện nay, cả nѭớc đang đẩy mạnh triển khai thực hiện chuyển đổi số, do đó, ngân sách nhà nѭớc chi cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số cũng đѭợc quan tâm, bố trí. Nhằm tăng cѭờng hiệu lực thực thi pháp luật và hiệu quả công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nѭớc cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, khoa học, phòng tránh sớm các rủi ro, sai phạm, tiêu cực, các Bộ, ngành và địa phѭơng hoàn thành ban hành các nghị quyết, chѭơng trình, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm việc đầu tѭ và sử dụng các nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nѭớc đѭợc sử dụng đúng nội dung, đúng mục tiêu, đúng nguồn kinh phí, tiết kiệm, hiệu quả. Việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nѭớc cho công nghệ thông tin, chuyển đổi số cần thực hiện đúng quy trình, thủ tục và quy định pháp luật hiện hành về quản lý đầu tѭ, ngân sách nhà nѭớc, đấu thầu301.
4. Xây dựng văn hóa số và quản lý các rủi ro trong chuyển đổi số
a) Xây dựng văn hóa số trong cơ quan nhà nѭớc
Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa, đòi hӓi các cơ quan, bộ, ngành, địa phѭơng phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới chấp nhận và ứng phó với các rủi ro.
Cùng với lãnh đạo đúng đắn, yếu tố quan trọng cho thành công của chuyển đổi số chính là và văn hóa tổ chức hỗ trợ cho những thay đổi. Khi mà chuyển đổi số chѭa có tiền lệ, còn nhiều vấn đề chѭa rõ ràng, hơn nữa văn hoá với những giá trị, niềm tin cần phải đѭợc nhận thức đúng đắn để có thể quản lý đúng và thực hành hiệu quả302.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy rất ít ngѭời ủng hộ bởi tâm lý e sợ vì đã quen với việc ổn định. Đặc biệt là khi đầu tѭ công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả thực thi công việc, nhiều ngѭời viện đủ loại các lý do để không chịu đi học nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của công nghệ hiện đại. Tâm lý ngại thay đổi dẫn tới hạn chế tѭ duy và tâm thế đổi mới; sự tìm đѭợc giải pháp hoàn hảo và tránh đѭợc những rủi ro. Tâm lý e ngại thay đổi không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn mà còn do tình trạng np tránh trách nhiệm, không hào hứng với thay đổi, dẫn tới sức ì.
Nguyên tắc làm việc truyền thống cấp dѭới phục tùng tuyệt đối cấp trên dẫn tới thói quen không phản hồi: cấp trên không kịp thời xử lý thông tin với những lý do chính đáng và không chính đáng. Trong khi chuyển đổi số đòi hӓi thông tin phải đѭợc xử lý nhanh chóng, tức thì, khiến cho công việc bị ngѭng trệ trong khi cấp dѭới ngại nhắc nhở. Chuyển đổi số về bản chất còn là việc đѭa tới tѭ duy có làm hay không làm một cách rõ ràng và dứt khoát. Nhѭ vậy, chuyển đổi số phải gắn với tѭ duy số, không những số hóa quy trình, thao tác mà còn phải số hóa cả tѭ duy.
Chuyển đổi số có thể là môi trѭờng thuận lợi giúp hạn chế tính bảo thủ, quan liêu của nền công vụ, khi mà văn hóa chuyển đổi số đòi hӓi sự linh hoạt và nhạy bpn. Điều này buộc các quy trình, thủ tục giải quyết công việc phải khoa học, thông suốt, trôi chảy, nhanh chóng, đѭợc kiểm soát chặt chӁ. Bên cạnh đó, cũng cần linh hoạt trong việc tiếp thu ý kiến, phản hồi. Một nền công vụ đổi mới chỉ có thể tồn tại trong dòng chảy mãnh liệt của chuyển đổi số nếu nó thực sự linh hoạt và kịp thời thích nghi với thay đổi và những điều mới mẻ.
Nền công vụ nhѭ một thực thể sống, luôn vận động và phát triển. Cải cách công vụ trong thời đại chuyển đổi số phải hѭớng tới hình thành và duy trì thói quen sử dụng chính công nghệ số để tạo ra các nền tảng, các hệ thống quản lý, trong đó, các thói quen cần có đã đѭợc hình thành và củng cố trong chính nền tảng và hệ thống để mỗi thành viên của tổ chức khi làm việc buộc phải tuân thủ. Sự tuân thủ nhѭ vậy đòi hӓi phải vѭợt qua những rào cản không thể tránh khӓi nhѭ: ý thức lãnh đạo (không phải nhận thức) nhiều khi đòi hӓi cấp dѭới phải thay đổi trong khi chính mình lại ít quan tâm; tốc độ lãnh đạo, quản lý không theo kịp tốc độ thay đổi của thời đại và tính chất của các nhiệm vụ có liên quan; các xung đột nội bộ do sự thay đổi khiến cho các bộ phận trở nên thiếu đồng bộ, nếu không đѭợc kiểm soát tốt thì có thể tạo nên sự nghi kị, ỷ lại hoặc bất hợp tác, có thể dẫn tới cản trở lẫn nhau.
Để thích ứng với môi trѭờng cạnh tranh và thay đổi đòi hӓi cán bộ, công chức cấp cao biết làm việc trong lĩnh vực chѭa đѭợc nghiên cứu, chѭa đѭợc biết rõ, có khả năng ra quyết định trong điều kiện bất định và tạo những đổi mới với nguồn lực hạn chế, đồng thời có khả năng làm rõ và sử dụng những điều bất định cho mục đích của mình, thích ứng nhanh với các điều kiện mới. Nhà lãnh đạo trong kỷ nguyên số cần có tѭ duy phân tích, tѭ duy hệ thống và tѭ duy phản biện ở mức độ cao, biết nhận ra bản chất vấn đề, biết xem xpt vấn đề từ nhiều góc độ, biết mở rộng vấn đề, liên kết vấn đề, có khả năng suy nghĩ trên nhiều phѭơng án, tính đến những vấn đề không dự báo hết đѭợc trong bối cảnh luôn có sự thay đổi, bất định và phức tạp.
Tóm lại, nhѭng chuyển đổi số không chỉ là công nghệ số, mà quan trọng hơn, chuyển đổi số là chấp nhận cái mới, do đó, chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tѭ duy, nhận thức, thể chế, chính sách và định hình một nền văn hoá công vụ mới - văn hoá số trong quản lý nhà nѭớc, cuộc cách mạng lớn lao hơn một cuộc cách mạng công nghệ đơn thuần.
b) Quản lý các rủi ro trong chuyển đổi số quốc gia
Chuyển đổi số tạo ra một không gian sống mới, gọi là không gian mạng. Cuộc sống đã và đang vào không gian mạng nhanh hơn so với hệ thống pháp luật và bộ máy thực thi pháp luật và vì vậy, các nguy cơ là không nhӓ. Vì không thể không có rủi ro nên cách tiếp cận sӁ là quản lý rủi ro, tối thiểu rủi ro, khi rủi ro xảy ra thì khả năng hồi phục là quan trọng nhất.
Các rủi ro chính trong chuyển đổi số quốc gia có thể đѭợc nhận diện và phân loại nhѭ sau:
Thứ nhất, là các rủi ro từ góc độ kỹ thuật, công nghệ gồm:
- Rủi ro về công nghệ, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ số: là các rủi ro liên quan đến công nghệ sẵn có trên thị trѭờng chѭa phổ biến hoặc công nghệ chѭa có trên thị trѭờng; rủi ro về trục trặc/hӓng hóc của ứng dụng và khả năng thực hiện chức năng nhѭ mong muốn đặt ra ban đầu của ứng dụng; rủi ro liên quan đến việc công nghệ kỹ thuật bị lạc hậu trѭớc khi sản phẩm dự án kết thúc vòng đời hoạt động và không thể thực hiện chức năng của nó nhѭ dự kiến và mong muốn ban đầu; rủi ro do không có cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai các dịch vụ, ứng dụng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử hoặc cơ sở hạ tầng chѭa đáp ứng
- Rủi ro về an toàn, an ninh thông tin: là các rủi ro liên quan đến tính toàn vẹn/khả năng bị tấn công của hệ thống thông tin; Rủi ro liên quan đến sự mất mát/sử dụng thông tin, dữ liệu sai mục đích; rủi ro về trục trặc, hӓng hóc kỹ thuật của ứng dụng; rủi ro liên quan đến an ninh/khả năng bị tấn công của hệ thống và giữa các hệ thống; Rủi ro liên quan đến sự mất mát hoặc lạm dụng dữ liệu, thông tin, rủi ro về nguy cơ mất, lộ lọt đối với thông tin bí mật quốc gia dẫn tới mất chủ quyền số quốc gia, thông tin về ngѭời dân và doanh nghiệp, lộ lọt dữ liệu cá nhân và quyền riêng tѭ.
- Rủi ro về tính độc lập và độ tѭơng thích, liên thông của hệ thống đѭợc đầu tѭ với các hệ thống khác: là các rủi ro liên quan đến tính tѭơng thích, liên thông, liên kết tích hợp giữa các hệ thống; rủi ro về việc hệ thống tѭơng thích nhѭng không mang lại kết quả nhѭ mong muốn
Thứ hai, là các rủi ro từ góc độ quản lý gồm:
- Rủi ro về chiến lѭợc, chính sách, pháp lý: các đề xuất không đạt đѭợc kết quả nhѭ mục tiêu đề ra; rủi ro liên quan đến sự chồng chpo, trùng lặp do chiến lѭợc, chính sách không thống nhất, đồng bộ; thiếu và chѭa đồng bộ trong các quy định pháp lý.
- Rủi ro về quản lý hoạt động và thay đổi: rủi ro liên quan do chѭa xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai xây dựng chính phủ điện tử hѭớng tới chính phủ số. Rủi ro liên quan đến lề lối, phѭơng thức làm việc, thói quen sử dụng của ngѭời dân, của cán bộ xử lý, việc tránh np, ít/không sử dụng, sử dụng với hệ thống không phù hợp; đào tạo chѭa hiệu quả
- Rủi ro về nguồn lực: Rủi ro liên quan đến tính toán sai chi phí ban đầu dẫn đến tăng chi phí; thiếu vốn, không có vốn, cắt vốn; nhân sự không đủ; năng lực, trình độ chuyên môn không đáp ứng
- Rủi ro về hoạt động phối hợp: Rủi ro liên quan về thiếu hợp tác và đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phѭơng và ngay trong chính nội bộ cơ quan, đơn vị.
- Rủi ro về tính khả thi, hiệu quả: Rủi ro liên quan đến phѭơng án đề xuất ban đầu không đạt đѭợc kết quả nhѭ mong muốn; rủi ro về những mục tiêu, chỉ tiêu, công việc của kế hoạch triển khai không đạt đѭợc; rủi ro về hiệu quả đặt ra không đạt đѭợc
- Rủi ro về thời hạn: Rủi ro liên quan đến sự lùi, hoãn hoặc chậm thời hạn nhiệm vụ; không đảm bảo tiến độ, không đạt đѭợc các mốc công việc đã định ra theo kế hoạch đѭợc Bộ, tỉnh duyệt hoặc theo thời hạn đѭợc Chính phủ/Thủ tѭớng Chính phủ giao.
Ngoài ra, còn có các rủi ro khác nhѭ vấn đề độc quyền: rủi ro liên quan đến lựa chọn đầu tѭ phụ thuộc vào công nghệ hoặc ứng dụng mà khi tiến hành mua sắm chỉ có thể lựa chọn từ một nhà thầu hoặc một nhà cung cấp đặc thù hay các rủi ro khác gắn với thiên tai, thảm họa303.
Trong quản lý rủi ro chuyển đổi số quốc gia cần đảm bảo một số yêu cầu:
- Rủi ro cần đѭợc dự báo trѭớc, cần phân loại đѭợc các rủi ro, xác định nguyên nhân, đánh giá xác xuất xảy ra rủi ro, đánh giá mức độ ảnh hѭởng của rủi ro và đề xuất phѭơng án giảm thiểu rủi ro.
- Cần sẵn sàng chuẩn bị cho việc giải quyết tình huống rủi ro khi đã xảy ra, làm nhẹ bớt đi các tác động xấu hơn.
- Quản lý rủi ro đòi hӓi phản ứng nhanh chóng và quyết đoán, thực hiện các bѭớc thận trọng, chính xác, không để rủi ro kpo dài gây ảnh hѭởng xấu. Đảm bảo phối hợp hiệu quả, tránh quan liêu, máy móc.
- Thường xuyên thu thập và cập nhật thông tin để đѭa ra các quyết định, lựa chọn các phѭơng án phù hợp với điều kiện, khả năng và tình huống cụ thể và hành động cho phù hợp với tình hình. Mỗi quốc gia có điều kiện tự nhiên, địa lý, môi trѭờng, khí hậu cũng nhѭ trình độ kinh tế xã hội, năng lực và dân trí khác nhau nên biểu hiện của các loại rủi ro không giống nhau. Mỗi quốc gia có tiềm lực kinh tế khác nhau, sử dụng nguồn lực kinh tế tài chính cần có sự tính toán cân đối giữa phát triển kinh tế, cải thiện xã hội và phòng chống rủi ro. Mỗi tình huống, vụ việc rủi ro cũng khác nhau. Vì vậy trong giải quyết rủi ro cần tính đến đặc điểm, bối cảnh cụ thể.
- Đảm bảo kênh thông tin cởi mở, công khai. Trong quản lý nhà nѭớc không vì sự trách nhiệm, sợ khuyết điểm mà bѭng bít thông tin. Bѭng bít thông tin có thể gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ, mất niềm tin của xã hội hay trở thành nguy cơ rủi ro khác là do không áp dụng các biện pháp phòng tránh kịp thời.
- Đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể có thể đòi hӓi những yêu cầu và phѭơng pháp riêng phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi ngành, lĩnh vực.
5. Đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
a) Khái quát về đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
Mục đích đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia nhằm theo dõi, nhận định xác thực, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số theo định kỳ; so sánh, xác định các thế mạnh và các thách thức trong chính phủ điện tử, chính phủ số, từ đó đѭa ra các chính sách và chiến lѭợc phù hợp trong quá trình triển khai thực hiện Chѭơng trình Chuyển đổi số quốc gia. Việc đánh giá đѭợc thực hiện thông qua các bộ chỉ số đánh giá - là công cụ đo lѭờng chuẩn ở cấp độ quốc tế, quốc gia, cũng nhѭ ở cấp độ các bộ, ngành và địa phѭơng.
Bộ chỉ số là căn cứ để các quốc gia xác định tính hiệu quả của chuyển đổi số đạt đѭợc ở mức nào, đâu là những hạn chế cần cải thiện. Để từ đó ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho chuyển đổi số sâu rộng ở cấp độ quốc gia cũng nhѭ trong ngành và địa phѭơng quản lý. Ở góc độ này, bộ chỉ số chuyển đổi số sӁ là "chỉ dấu" quan trọng để biết tính hiệu quả của chuyển đổi số đạt đѭợc ở mức nào; đâu là những hạn chế cần cải thiện.
b) Bộ chỉ số đo lѭờng, đánh giá Chuyển đổi số ở Việt Nam
Thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trong Chѭơng trình Chuyển đối số quốc gia ở Việt Nam và Chiến lѭợc phát triển Chính phủ điện tử hѭớng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hѭớng đến năm 2030, trên cơ sở nghiên
cứu các bộ chỉ số quốc tế, từ năm 2020 đã triển khai Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh thành phố trực thuộc trung ѭơng (gọi tắt là bộ chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh, cấp quốc gia - DTI). Bộ chỉ số đo lѭờng, đánh giá Chuyển đổi số ở Việt Nam cũng đѭợc xây dựng trên các nguyên tắc chung, khung đánh giá của Liên hợp quốc và cụ thể hóa phù hợp với các mục tiêu và điều kiện ở Việt Nam. Bộ chỉ số chuyển đổi số bao gồm 03 cấp: cấp bộ, cấp tỉnh và cấp quốc gia.
- Chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ѭơng. Chỉ số chuyển đổi số năm 2020 cấp tỉnh đѭợc cấu trúc theo 3 trụ cột (pillar) là: Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số, Trong mỗi trụ cột đều có 7 chỉ số chính với tổng 108 chỉ số thành phần và 306 tiêu chí (57 tiêu chí đѭợc thực hiện khảo sát ngѭời dân, Chính phủ điện tử, các công chức). Mỗi trụ cột đều có 07 chỉ số chính và các chỉ số thành phần, tiêu chí tѭơng ứng, cụ thể: Chính quyền số có 45 chỉ số thành phần và 133 tiêu chí; kinh tế số có 2 chỉ số thành phần và 101 tiêu chí; xã hội số có 27 chỉ số thành phần và 72 tiêu chí. 7 chỉ số chính gồm: Chỉ số đánh giá về Chuyển đổi nhận thức; Chỉ số đánh giá về Kiến tạo thể chế; Chỉ số đánh giá về Phát triển Hạ tầng và nền tảng số; Chỉ số đánh giá về Thông tin và Dữ liệu số; Chỉ số đánh giá về Hoạt động chuyển đổi số; Chỉ số đánh giá về An toàn, an ninh mạng; Chỉ số đánh giá về Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số.
- Chỉ số chuyển đổi số cấp bộ, gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong đó khối bộ đѭợc chia là 2 nhóm: bộ có cung cấp dịch vụ công và bộ không cung cấp dịch vụ công. Chỉ số chuyển đổi số cấp bộ không đánh giá riêng theo các trụ cột nhѭ cấp tỉnh mà đánh giá chung chỉ số chuyển đổi số của bộ để đảm bảo những tiêu chí đánh giá là tѭơng đồng, phù hợp với đặc điểm của mỗi bộ phụ trách một trụ cột khác nhau.
Bộ chỉ số chuyển đổi số 2020 cấp bộ cũng gồm 7 chỉ số chính nhѭ chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, trong mỗi chỉ số chính có những chỉ số thành phần khác nhau và trong mỗi chỉ số thành phần có các tiêu chí (đánh giá qua số lѭợng báo cáo - điều tra xã hội học, sắc thái thông tin trên không gian mạng, phỏng vấn các chuyên gia). Có 41 chỉ số thành phần và 111 tiêu chí (109 tiêu chí đѭợc thực hiện đánh giá từ số liệu thu thập của bộ, ngành báo cáo; 2 tiêu chí đѭợc thực hiện khảo sát ngѭời dân, Chính phủ điện tử).
- Bộ chỉ số chuyển đổi số quốc gia đѭợc cấu trúc theo 3 trụ cột là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Chỉ số này cũng gồm 7 chỉ số chính nhѭ chỉ số chuyển đổi số cấp tỉnh, trong mỗi chỉ số chính có các chỉ số thành phần.
Bộ chỉ số chuyển đổi số cấp bộ nhằm theo dõi, đánh giá, xếp hạng một cách thực chất, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số hàng năm các bộ, tỉnh. Còn Bộ chỉ số chuyển đổi số quốc gia không chấm điểm, xếp hạng, mà nhằm cung cấp thông tin về kết quả chuyển đổi số chung của cả nѭớc để báo cáo Chính phủ, Thủ tѭớng Chính phủ và phục vụ các cơ quan, tổ chức liên quan cũng nhѭ cho các tổ chức quốc tế sử dụng khi đánh giá các chỉ số quốc tế.
Căn cứ theo kết quả đánh giá chuyển đối số cấp tỉnh và cấp bộ, các chỉ số thành phần và tiêu chí của Chỉ số chuyển đổi số quốc gia sӁ đѭợc Bộ Thông tin và Truyền thông quy định và điều chỉnh cho phù hợp thực tế.
Kết quả đánh giá chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh giúp cung cấp bức tranh tổng thể về chuyển đổi số ở Việt Nam, đồng thời theo dõi, đánh giá, xếp hạng một cách thực chất, khách quan và công bằng kết quả thực hiện chuyển đổi số hằng năm của các bộ, tỉnh, thành phố để có giải pháp thúc đẩy trong thời gian tới.
Căn cứ vào Bộ Chỉ số chuyển đổi số (DTI) cấp bộ và Bộ Chỉ số DTI cấp tỉnh năm 2020, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tiến hành đánh giá, xếp hạng mức độ chuyển đổi số năm 2020 đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ѭơng. Kết quả đánh giá mức độ chuyển đổi số cấp bộ, cấp tỉnh năm 2020 lần đầu tiên công bố vào tháng 10/2021.
c) Một số nhiệm vụ đặt ra nhằm tiếp tục hoàn thiện đánh giá mức độ chuyển đổi số quốc gia
Xây dựng bộ chỉ số đo lѭờng triển khai chính phủ số và bộ công cụ giám sát, đánh giá là một trong những nội dung cả quản lý chuyển đổi số quốc gia với những nhiệm vụ cụ thể đѭợc đặt ra là:
- Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ, ngành, địa phѭơng cần tiếp tục nghiên cứu các chỉ số chuyển đổi số quốc tế; xây dựng và thѭờng xuyên cập nhật, bổ sung cho phù hợp trên cơ sở kế thừa và phát triển từ bộ chỉ số đo lѭờng Chính phủ điện tử.
- Các bộ, các tỉnh cần xây dựng và đѭa vào triển khai Chỉ số chuyển đổi số áp dụng trong nội bộ của bộ, tỉnh đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc phù hợp với điều kiện thực tế của bộ, tỉnh để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong công tác theo dõi, đánh giá chuyển đổi số, đồng thời cũng cần đảm bảo phù hợp và thể hiện rõ tính đặc thù từng lĩnh vực quản lý chuyên ngành.
- Xây dựng, lồng ghpp tiêu chí đánh giá về chính phủ điện tử, chính phủ số vào các bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI Index), bộ chỉ số cải cách hành chính (PAR Index);
- Xây dựng bộ công cụ để giám sát, đánh giá mức độ, hiệu quả triển khai chính phủ điện tử, chính phủ số;
- Định kỳ hàng năm công bố kết quả đánh giá, làm cơ sở để theo dõi, đôn đốc, xếp hạng về chính phủ điện tử, chính phủ số; công khai trực tuyến các chỉ số chính trong phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số.
Trong xây dựng và hoàn thiện các bộ chỉ số đánh giá, cũng cần lѭu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trong bộ chỉ số chuyển đổi số chính phủ, các chỉ số đã tập trung đánh giá về dịch vụ công trực tuyến cho ngѭời dân và tổ chức, dữ liệu mở, qua đó giúp thấy đѭợc sự thay đổi và tác động qua lại giữa công dân - nhà nѭớc. Cần tiếp tục có thêm những chỉ số đánh giá mức độ chuyển đối số trong thực hiện các chức năng của nhà nѭớc nhѭ hoạt động thanh tra, kiểm tra, xây dựng pháp luật, chuyển đổi số các quy trình nội bộ để thấy rõ hơn mức độ tác động qua lại giữa các cơ quan nhà nѭớc với nhau và với công chức, viên chức trong hệ thống.
Thứ hai, việc đánh giá mức độ chuyển đổi số trong mỗi lĩnh vực cụ thể giúp đánh giá về mức độ gia tăng về số lѭợng sử dụng công nghệ số của công dân và tổ chức. Ở mức độ sâu hơn, có thể thêm những đánh giá so sánh đối chiếu về tính hiệu quả về thời gian và các nguồn lực khác khi sử dụng các công nghệ số, sự ảnh hѭởng của các quá trình chuyển đổi số đến nâng cao chất lѭợng thực hiện các chức năng của nhà nѭớc và dịch vụ công, giúp đánh giá đѭợc "kết quả đầu ra", phản ánh đѭợc hiệu quả thực chất của chuyển đổi số. Cách tiếp cận sӁ giúp tránh đѭợc cái bẫy của chuyển đổi số, tức là chuyển đổi số vì chuyển đổi số.
Thứ ba, phần lớn các chỉ số đѭợc phân tích dựa trên cơ sở sử dụng các số liệu thống kê cũng nhѭ kết quả khảo sát lấy ý kiến, cho phpp mở rộng lĩnh vực đánh giá, tính đến các yếu tố có thể đѭợc đánh giá về chất lѭợng. Mặt khác, việc sử dụng các kết quả đánh giá dựa trên khảo sát quá nhiều có thể ảnh hѭởng đến kết quả thu đѭợc. Vấn đề này có thể đѭợc giải quyết trên cơ sở kết hợp khảo sát lấy ý kiến một cách phù hợp với tăng cѭờng sử dụng các dữ liệu, số liệu về kết quả thực tế.
Thứ tѭ, trong nhiều chỉ số đѭợc phân tích tính đến các chỉ số đánh giá nguồn nhân lực. Trong điều kiện hình thành xã hội số, trình độ dân trí và giáo dục, mức độ tuyên truyền, phổ biến, tập huấn là cần thiết để đánh giá mức độ sẵn sàng với xã hội số, bao gồm cả mức độ tѭơng tác với chính quyền dѭới dạng số. Đồng thời cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống các chỉ số phản ánh rõ hơn về mức độ phát triển kỹ năng số của cán bộ, công chức, viên chức và công dân.
